Những diễn biến mới của tình hình trong nước và quốc tế đòi hỏi phải có những điều chỉnh hợp lý về chính sách vĩ mô. Vấn đề mang tính cốt lõi hiện nay là làm thế nào để các doanh nghiệp (DN) tiếp tục phát triển ổn định, có mức tăng trưởng hợp lý, đủ sức chống chọi được với sóng gió của những biến động mang tính toàn cầu trong điều kiện vừa ngăn chặn suy giảm kinh tế vừa tiếp tục kiềm chế lạm phát.
DN khó cả đầu vào và đầu ra
Chi phí vốn vay quá cao là một trong những khó khăn lớn nhất của các DN hiện nay. Lãi suất cho vay của các ngân hàng vào thời kỳ tháng 5, 6, và 7 vừa qua có lúc lên tới hơn 25%/năm (bao gồm cả các loại phí). Ngay vào thời điểm này, cho dù mức lãi suất cơ bản đã giảm đáng kể kéo theo lãi suất cho vay tối đa bằng VNÐ của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng giảm song các DN cũng chưa dễ dàng tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng. Kết quả khảo sát 340 DN do Viện Quản trị kinh doanh (Trường Ðại học KTQD) thực hiện vào tháng 9-2008 cho thấy hầu hết các DN trong mẫu điều tra (178/340) đều cho rằng chính sách vay vốn hiện tác động tiêu cực đối với DN.
Bên cạnh chi phí đầu vào cao, DN còn khó khăn do chất lượng đầu vào kém và thiếu. Việc điều hành chính sách giá cả các mặt hàng đầu vào chiến lược (điện, xăng dầu, nước, than đá) chưa theo kịp tín hiệu của thị trường đã nhân khó khăn của các DN lên nhiều lần. Trong khi đó thị trường đầu ra ngày càng khó khăn hơn.
Cạnh tranh về giá trong điều kiện lạm phát tăng cao và thị trường suy giảm sẽ là hai gánh nặng cùng một lúc đối với các DN xuất khẩu. Thị trường Mỹ và châu Âu chiếm tới hơn 40% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam bị tác động nặng nề nhất. Do vậy, các DN xuất khẩu chủ yếu sang các khu vực này sẽ đối mặt với những thách thức to lớn.
Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu làm cho nhu cầu trong nước suy yếu, xuất khẩu giảm sút và hậu quả tất yếu là sản lượng và lợi nhuận của các DN đều giảm mạnh. Khó khăn về tài chính khiến DN buộc phải trì hoãn các dự án mới, thậm chí cắt giảm nhân sự, hoạt động cầm chừng. Ðối với các DN nhỏ và vừa, những khó khăn và thách thức còn lớn hơn. DN thuộc các ngành nghề dễ bị tổn thương như dệt, may, thủy sản, nông sản, chăn nuôi là những đối tượng hiện đang gặp khó khăn lớn nhất.
Ðể DN vượt qua khó khăn và thách thức
Trước tình hình kinh tế trong nước và quốc tế hiện nay, mục tiêu ưu tiên hàng đầu là hỗ trợ các DN ngăn chặn suy giảm kinh tế. Mặc dù vậy, kiềm chế lạm phát vẫn tiếp tục là ưu tiên thứ hai và là nhiệm vụ xuyên suốt trong quản lý vĩ mô. Chúng ta chưa thật sự thoát khỏi cái bóng của lạm phát khi các nguyên nhân sâu xa gây lạm phát từ nội tại nền kinh tế vẫn còn nguyên đó.
Như vậy, bài toán đặt ra đối với quản lý kinh tế vĩ mô hiện nay là phải xây dựng và kết hợp các chính sách như thế nào để DN có thể phát triển hợp lý, đủ sức chống chọi được suy thoái kinh tế toàn cầu trong điều kiện kiềm chế lạm phát. Trên tinh thần đó, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung ưu tiên vào các giải pháp sau.
Một là, cần thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt theo tín hiệu thị trường, kiểm soát lạm phát chủ yếu thông qua lượng tiền cung ứng (M2) vào lưu thông. Từng bước giảm dần lãi suất theo mục tiêu bảo đảm lãi suất cho vay tới các DN ở mức hợp lý (tiến tới mức 13-14%/năm) và bảo đảm chính sách lãi suất thực dương trong kiềm chế lạm phát. Nới lỏng dần các quy định về tín dụng (mức tăng trưởng, dự trữ bắt buộc...). Cần nhanh chóng nâng cao chất lượng tín dụng thông qua việc phân loại các ngân hàng để có những quy định mang tính chuẩn mực cho từng loại ngân hàng. Khuyến khích các ngân hàng tốt, có tình hình tài chính lành mạnh tăng cường các hoạt động tín dụng. Cần chú trọng củng cố và tăng cường hơn nữa khả năng thanh toán của từng tổ chức tín dụng. Chính phủ cần có phương án xử lý nợ xấu của tổng thể nền kinh tế và của các ngân hàng thương mại.
Hai là, thực hiện các biện pháp kích cầu nền kinh tế. Trong đó, mục tiêu quan trọng nhất của kích cầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế. Tập trung kích cầu đầu tư thông qua việc tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng của các DN, nhất là DN nhỏ và vừa, DN xuất khẩu. Có thể thành lập một quỹ bảo lãnh tín dụng ở tầm cỡ quốc gia. Việc kích cầu của Chính phủ thông qua gói giải pháp 1 tỷ USD cần được giao cho một định chế tài chính quản lý và giám sát chặt chẽ.
Về thực hiện chương trình kích cầu nội địa, trước mắt kích cầu tiêu dùng thông qua việc tập trung giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập và sức mua có khả năng thanh toán của người lao động, khuyến khích tiêu dùng hàng nội địa và thực hiện các chính sách mới về bảo đảm an sinh xã hội như bảo hiểm thất nghiệp, xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhà nước cần có chính sách đặc biệt đối với các đối tượng dễ bị tổn thương nhất như nông dân, ngư dân bằng việc hỗ trợ giống, thủy lợi, giảm các khoản phí và tăng trợ giá.
Ba là, nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả đầu tư và chi tiêu công cộng. Cải tiến một cách mạnh mẽ chính sách tài khóa của Chính phủ theo hướng công khai, minh bạch, tập trung đầu tư vào các công trình trọng điểm, tạo sức bật cho nền kinh tế. Kết hợp hiệu quả giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Chính phủ cần tổ chức nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện hoạt động của các DN nước ngoài ở Việt Nam để hoàn thiện cơ chế thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài theo hướng chủ động và có chọn lọc, đúng chiến lược kinh tế và bảo đảm tôn trọng các chủ thể kinh tế trong nước.
Bốn là, cần nghiên cứu xây dựng và triển khai thực hiện phương án tổng thể về giãn, miễn giảm thuế thu nhập DN, thuế thu nhập cá nhân để đạt được mục tiêu kích cầu trong nước và hỗ trợ DN phát triển sản xuất, kinh doanh. Cần có chính sách giảm thuế đối với các DN đầu tư, mua sắm máy móc để kích thích sản xuất. Bên cạnh đó, có chính sách giá linh hoạt, nhất là đối với các yếu tố đầu vào do Nhà nước hoặc các DN nhà nước hiện đang kiểm soát như xăng, dầu, điện, nước... Nhanh chóng thực hiện giảm mạnh giá xăng, dầu tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất, kinh doanh.
Năm là, hoàn thiện cơ chế, chính sách và tăng cường giám sát đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới các DN nhà nước theo hướng cổ phần hóa hoặc chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn theo Luật DN 2005. Không cho phép thành lập các DN thành viên thuộc các Tập đoàn, Tổng công ty theo hướng "khép kín hóa, bao sân hóa".
Sáu là, tăng cường hoạt động thông tin tuyên truyền kết hợp với việc thực thi các chương trình bảo đảm an sinh xã hội. Ðầu tư mạnh mẽ hơn vào giáo dục các cấp, nhất là đào tạo nghề, thay đổi quan niệm xã hội về nghề lao động. Ðầu tư trọng điểm vào các trường đại học.
Ngoài ra tăng cường khả năng dự báo và ứng phó với những biến động trong nền kinh tế là rất cần thiết và cấp bách. Nên có một cơ quan thường trực bao gồm các chuyên gia kinh tế hàng đầu trong nước tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về các vấn đề kinh tế - xã hội.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Phát huy những kết quả của năm 2008, Mặt trận Tổ quốc các cấp trong tỉnh sẽ cùng với Nhà nước và các tổ chức đoàn thể thành viên tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm của năm 2009:
Sáng ngày 6-1, tại Hội nghị tổng kết năm 2008 và triển khai kế hoạch nhiệm vụ năm 2009 của ngành công thương, đồng chí Nguyễn Hữu Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực UBND TP Cần Thơ, chỉ đạo: Ngành công thương thành phố cần tích cực quan hệ với các nhà đầu tư có năng lực để thu hút đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng công thương, xây dựng hệ thống kho trung chuyển hàng hóa, các kho dự trữ lưu thông các mặt hàng chiến lược, hệ thống kho bãi cho cụm cảng
Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp (DN) chuyên nhập khẩu, kinh doanh thức ăn chăn nuôi (TACN) phải ngừng sản xuất do bị thua lỗ. Các đơn vị này đã ồ ạt nhập hàng về lúc giá cao ngất ngưởng, đến nay, giá nguyên liệu giảm chỉ còn một nửa, hàng chưa về đến Việt Nam đã biết lỗ nặng. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của PV báo Hànộimới thì DN lỗ nặng chủ yếu là DN nhỏ, làm ăn thời vụ, còn các DN lớn thì hầu hết đứng ngoài cuộc.
Trong bảng xếp hạng toàn cầu về triển vọng phát triển kinh tế được công bố ngày 5/1, Tập đoàn Quốc tế Grant Thornton đánh giá Việt Nam đứng thứ 7 về mức độ lạc quan trong 12 tháng tới trong tổng số 36 nền kinh tế được khảo sát.
Khủng hoảng tín dụng thế chấp ở Mỹ đã lan nhanh từ khu vực tài chính sang khu vực kinh tế thực và từ nước Mỹ ra toàn cầu, với sức tàn phá khủng khiếp. Kinh tế thế giới đang suy giảm mạnh, nhiều ngành kinh tế chủ chốt đang có nguy cơ sụp đổ. Kinh tế Việt Nam dựa chủ yếu vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài đang đứng trước thử thách to lớn.
Ngày 5-1, tại Đà Nẵng, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á và Đại học Tokyo phối hợp với Trung tâm Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương Đà Nẵng (VAPEC) tổ chức Hội thảo “Quan hệ giữa Nhật Bản với các nước Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam và hợp tác phát triển Hành lang kinh tế Đông-Tây (EWEC)”.
Song hành với các diễn trình tạo dựng thương hiệu quốc gia của nhiều nước trên thế giới là việc triển khai “quản lý quan hệ công dân” và “quyền lực mềm”.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.