Khủng hoảng tín dụng thế chấp ở Mỹ đã lan nhanh từ khu vực tài chính sang khu vực kinh tế thực và từ nước Mỹ ra toàn cầu, với sức tàn phá khủng khiếp. Kinh tế thế giới đang suy giảm mạnh, nhiều ngành kinh tế chủ chốt đang có nguy cơ sụp đổ. Kinh tế Việt Nam dựa chủ yếu vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài đang đứng trước thử thách to lớn.
Tình hình kinh tế thế giới
Khủng hoảng đang lan nhanh từ khu vực tài chính sang khu vực kinh tế thực và tác động mạnh đến kinh tế toàn cầu. Mỹ là tâm điểm của cuộc khủng hoảng và là nền kinh tế bị suy thoái nặng nề nhất. Báo cáo mới nhất của Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia Mỹ (NBER) chính thức xác nhận kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái từ cuối năm 2007 với những dấu hiệu rõ ràng như thất nghiệp gia tăng; doanh số bán lẻ giảm; thu nhập thực tế giảm và chỉ số tăng trưởng công nghiệp suy yếu dần. GDP của Mỹ đã giảm liên tục trong ba quý gần đây. Thị trường chứng khoán tụt dốc với chỉ số Ðao Giôn giảm 33%. Thị trường nhà đất tiếp tục đình trệ và chưa có dấu hiệu phục hồi. Ngành công nghiệp ô-tô của Mỹ, một ngành kinh tế then chốt liên quan hơn bốn triệu việc làm đang có nguy cơ sụp đổ. Nếu Chính phủ Mỹ không cứu trợ ngành này, thì đây có thể là một thảm họa mới giáng vào nền kinh tế Mỹ và thế giới. Ðã có 22 ngân hàng của Mỹ bị phá sản hoặc sáp nhập; hệ thống tài chính đang chống đỡ với những tổn thất nặng nề; khủng hoảng thanh khoản có thể đã qua (lãi suất liên ngân hàng Mỹ và quốc tế đã giảm mạnh từ hơn 6% xuống còn 1,5%/năm) nhưng cuộc khủng hoảng nợ xấu đang ập đến đe dọa sự tồn tại của nhiều ngân hàng thương mại Mỹ.
Khủng hoảng cũng lan rộng và nhấn chìm kinh tế nhiều nước châu Âu, trước hết là Ai-xơ-len, tiếp đến U-crai-na, Thổ Nhĩ Kỳ, Ru-ma-ni, Hung-ga-ri... các nền kinh tế lớn như Ðức, Anh, Pháp, I-ta-li-a cũng chính thức bước vào suy thoái.
Ở châu Á, kinh tế Pa-ki-xtan, Phi-li-pin đang xấu đi rất nhanh. Kinh tế Nhật Bản đã giảm liên tiếp trong hai quý. Xuất khẩu bị tổn hại rất lớn do đồng Yên tăng giá so với USD. Chỉ số chứng khoán Ních-cây giảm 42%; doanh số bán lẻ giảm mạnh kể từ cuối quý II-2008. Kinh tế Trung Quốc cũng suy giảm mạnh kể từ tháng 9-2008. Chỉ số chứng khoán CSI đã giảm gần bốn lần so với đỉnh điểm hồi cuối năm 2007, thất nghiệp gia tăng, xuất khẩu giảm liên tục, hàng hóa ứ đọng với khối lượng rất lớn.
Các quốc gia dầu mỏ ở Trung Ðông, Nam Mỹ và Nga cũng đang đối mặt với hệ thống tài chính ốm yếu, đồng tiền mất giá từ 20% đến 25% so với USD.
Suy thoái kinh tế cũng kéo theo việc giảm giá dầu thô trầm trọng. Giá nguyên vật liệu và khoáng sản đều giảm mạnh, giá nông sản xuống dốc thẳng đứng. Các yếu tố của lạm phát cầu kéo và chi phí đẩy đã đồng loạt đảo chiều. Tình trạng giảm phát xuất hiện trở lại ở Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản, bất chấp lãi suất chỉ đạo đã xuống rất thấp và một lượng tiền lớn được bơm vào khu vực tài chính (lãi suất chỉ đạo của các Ngân hàng trung ương Nhật Bản và Mỹ đã xuống mức 0 và gần 0).
Hàng loạt các nước và nền kinh tế tuyên bố áp dụng các gói cứu trợ và kích thích kinh tế với tổng dự toán lên tới hơn 3.000 tỷ USD chiếm từ 5% đến 30% GDP của các nước này (Mỹ có thể lên tới 2.500 tỷ USD; Anh: 850 tỷ; Trung Quốc: 586 tỷ; Liên hiệp châu Âu (EU): 200 tỷ; Nhật Bản: 255 tỷ; Ðài Loan (Trung Quốc): 127,5 tỷ, Hàn Quốc; 141 tỷ...). Các gói cứu trợ của EU, Nhật Bản, Mỹ tập trung trước hết cho khu vực tài chính; trong khi các nước khác tập trung chủ yếu cho kích cầu tiêu dùng nội địa, mà chủ yếu tăng đầu tư công cho cơ sở hạ tầng, nhà ở, môi trường (rất có thể gói cứu trợ mới của Mỹ cũng sẽ theo hướng này - kích thích nội nhu). Tuy nhiên nhìn chung các gói cứu trợ đều thực hiện khá chậm do nhu cầu quá lớn và vấn đề quá mới. Cho đến nay ước tính mới chỉ giải ngân được khoảng một phần tư mức dự kiến. Tuy nhiên ánh sáng đầu tiên đã xuất hiện đáng khích lệ: thị trường tín dụng có dấu hiệu tăng trở lại sau hơn hai tháng đóng băng tại Mỹ, châu Âu và một số nước khác.
Các dự báo mới nhất cho thấy, kinh tế thế giới năm 2009 chỉ tăng 2,2%, kinh tế Mỹ giảm sâu: âm 7%; Nhật Bản và EU khoảng: âm 0,5%. Kinh tế châu Á tăng trưởng khoảng 5%; kinh tế Trung Quốc tăng trưởng khoảng 7,5%. Dự kiến năm 2010, kinh tế thế giới phục hồi chậm. Tăng trưởng GDP toàn cầu có thể đạt từ 2,5% đến 3%. Kinh tế Mỹ, EU, Nhật Bản sẽ vượt qua đáy suy thoái; kinh tế châu Á sẽ tăng khoảng 6,5%. Kinh tế Trung Quốc trở lại mức tăng trưởng từ 9,5% đến 10%.
Kinh tế Việt Nam 2008 và dự báo
Trong bối cảnh kinh tế hiện tại, Việt Nam được coi là một quốc gia thành công. Tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 6,5%; lạm phát giảm mạnh nhất vào các tháng cuối năm; thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại giảm so với dự kiến; an sinh xã hội được cải thiện một bước. Tình hình chính trị - xã hội tiếp tục ổn định. Các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ đạt kết quả quan trọng, đặc biệt chính sách tiền tệ đã góp phần đắc lực giảm lạm phát và giảm thâm hụt thương mại. Tuy nhiên tình hình kinh tế bắt đầu khó khăn hơn kể từ quý IV-2008. Xuất khẩu giảm mạnh và đến tháng 11 đã xuống dưới ngưỡng năm tỷ USD/ tháng. Vì vậy thâm hụt thương mại tăng trở lại từ mức 260 triệu USD trong tháng 9 lên 700 triệu USD trong tháng 10 và 500 triệu USD trong tháng 11, dự kiến tháng 12 con số này tăng tới khoảng 600 triệu USD. Ðầu tư trực tiếp giải ngân chậm so với dự kiến; đầu tư gián tiếp ròng âm khoảng 500 triệu USD. Dự báo cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt và đây là lần đầu nền kinh tế nước ta gặp tình huống này, kể từ năm 2000.
Dự báo năm 2009
Nhiều nhà phân tích cho rằng, châu Á chịu ảnh hưởng nhẹ hơn từ khủng hoảng tài chính so với các nền kinh tế mới nổi. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nhất trong các nước Ðông Á. Yếu tố tác động mạnh nhất đến Việt Nam chính là xuất khẩu, chiếm tới 65% GDP. Ðầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động không lớn do tỷ lệ tiết kiệm nội địa của Việt Nam khá cao khoảng 30% GDP, so với tỷ lệ đầu tư (toàn xã hội) khoảng 40% GDP. Nói cách khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ đóng góp một phần tư tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, nếu FDI tập trung vào các dự án bất động sản và thép thì hiệu ứng đối với tăng trưởng kinh tế ngắn hạn không lớn.
Dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam mức cao nhất theo Ngân hàng Thế giới (WB) là 6,5%; thấp nhất theo Cục Tình báo kinh tế Anh (EIU) là 4,3% và trung bình theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là 5%. Nếu Chính phủ triển khai khẩn trương gói giải pháp kích cầu nội địa thì tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể đạt 6% và cao hơn vào năm 2010. Lạm phát năm 2009 sẽ khoảng 10% và tăng lên chút ít vào năm 2010. Thâm hụt thương mại dự kiến khoảng 17% GDP; cán cân thanh toán tổng thể có thể thâm hụt nhiều hơn năm 2008. Vì vậy sức ép thực tế tăng tỷ giá hối đoái đang mạnh lên. Tuy nhiên, mức tăng tỷ giá hối đoái có thể chỉ cao hơn năm 2008 chút ít. Tỷ lệ nợ xấu ngành ngân hàng dự kiến tăng chút ít nhưng không quá 5% theo chuẩn kế toán Việt Nam, trích lập dự phòng rủi ro sẽ cao hơn, việc tái cơ cấu nợ sẽ có thể làm giảm lợi nhuận tài chính của hệ thống ngân hàng. Thị trường chứng khoán có thể tiếp tục đình trệ trong nửa đầu năm 2009 và phục hồi chậm vào các tháng còn lại. Thị trường bất động sản có thể vượt qua đáy vào các tháng cuối năm 2009.
Về gói giải pháp kích cầu của Chính phủ
Tổng dự toán gói giải pháp đạt hơn 6% GDP là không nhỏ, nếu tập trung vào khu vực tạo ra nhiều việc làm như đầu tư cơ sở hạ tầng và doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, nhiều nguyên vật liệu nội địa và xuất khẩu. Trong trường hợp gói kích cầu này hướng vào các dự án tốn nhiều vốn, vào các tập đoàn, thì hiệu quả kích cầu sẽ rất thấp. Việc kích cầu cũng phải tiến hành đồng bộ với cả chính sách tiền tệ và tài khóa, nhằm hỗ trợ lẫn nhau và tạo ra hiệu ứng lan tỏa mạnh. Hiệu ứng kích cầu cũng cần được bảo vệ khỏi sự xâm lấn của hàng ngoại nhập, muốn vậy tỷ giá hối đoái cần được điều chỉnh linh hoạt theo hướng hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu. Chính sách kích cầu cần được tiến hành khẩn trương, vượt qua những rào cản hành chính và xung đột pháp lý. Khủng hoảng giống như một vòng xoáy, nếu chậm trễ, mỗi một vòng xoáy đi qua tổn thất sẽ lớn hơn, chi phí để cứu trợ sẽ cao hơn theo cấp số nhân (doanh nghiệp phá sản nhiều hơn và thất nghiệp sẽ lớn hơn, an sinh xã hội sẽ phức tạp hơn). Ngoài ra, nguồn nhân lực kích cầu phải đủ mạnh và tập trung vào hướng chủ chốt để tạo ra hiệu ứng lan tỏa nổi trội, trên cơ sở đó khôi phục lòng tin của doanh nghiệp, các nhà đầu tư và công chúng, đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh để đón đầu cơ hội phục hồi sau khủng hoảng.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Trong bảng xếp hạng toàn cầu về triển vọng phát triển kinh tế được công bố ngày 5/1, Tập đoàn Quốc tế Grant Thornton đánh giá Việt Nam đứng thứ 7 về mức độ lạc quan trong 12 tháng tới trong tổng số 36 nền kinh tế được khảo sát.
Ngày 5-1, tại Đà Nẵng, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á và Đại học Tokyo phối hợp với Trung tâm Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương Đà Nẵng (VAPEC) tổ chức Hội thảo “Quan hệ giữa Nhật Bản với các nước Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam và hợp tác phát triển Hành lang kinh tế Đông-Tây (EWEC)”.
Song hành với các diễn trình tạo dựng thương hiệu quốc gia của nhiều nước trên thế giới là việc triển khai “quản lý quan hệ công dân” và “quyền lực mềm”.
Hãng thông tấn Đức DPA vừa có bài tổng kết tình hình kinh tế Việt Nam năm 2008, nêu bật thành công của Việt Nam trong việc hóa giải nguy cơ khủng hoảng tài chính đến từ nạn lạm phát phi mã, nhưng đồng thời cũng cảnh báo những tác động không thể tránh khỏi từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Chúng tôi xin trích dịch giới thiệu cùng bạn đọc.
Ngày 12/1 tại Hà Nội, Viện Khoa học Tài chính và Viện phát triển Hàn Quốc phối hợp tổ chức hội thảo khoa học "Chính sách, giải pháp bảo đảm cho kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh và bền vững trong giai đoạn hiện nay" với sự tham gia của các chuyên gia kinh tế hai nước.
Chính phủ nhiều nước kể cả những nước công nghiệp hàng đầu thế giới coi việc chống suy thoái kinh tế như nhiệm vụ quan trọng nhất trong năm 2009, bằng các giải pháp chính sách đồng bộ để cứu thị trường tài chính trong nước, kích thích tiêu dùng và đầu tư vào những ngành kinh tế có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tái cơ cấu ở tầm vĩ mô, vi mô và thay đổi tư duy điều hành là hướng đi quan trọng cho hội nhập kinh tế quốc tế năm 2009.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.