Năm 2008 là năm đầy khó khăn đối với ngành công nghiệp. Những yếu tố bất lợi xảy ra gần như đồng thời đã có tác động tiêu cực tới tốc độ phát triển chung của toàn ngành. Mặc dù Chính phủ đã điều chỉnh giảm chỉ tiêu tăng trưởng công nghiệp năm 2008 xuống còn 16,3%, nhưng đến nay có thể khẳng định mục tiêu này đã trở nên xa vời.
Từ tháng 6-2008 đến nay, tốc độ tăng của toàn ngành có xu hướng chậm lại và dự kiến trong năm nay chỉ đạt 15,5%. Chiều hướng suy giảm trong công nghiệp xuất hiện không lâu sau khi Chính phủ quyết định thực hiện chính sách siết chặt tín dụng để chống lạm phát. Việc các ngân hàng hạn chế cho vay, đồng thời lãi suất huy động và vay tín dụng cũng được đẩy lên rất cao không những làm chi phí sản xuất tăng mạnh, mà còn tác động xấu tới sức mua của thị trường nội địa.
Cùng lúc đó, giá cả một loạt nguyên liệu, vật tư trên thị trường thế giới tăng mạnh, khiến cho khó khăn của ngành công nghiệp càng thêm chồng chất.
Tuy vậy, tốc độ tăng trưởng công nghiệp bị mất khoảng 1,5 điểm phần trăm trong năm nay vẫn chưa phải là điều đáng lo ngại nhất. Vấn đề đáng quan tâm hơn chính là hiệu quả của ngành đóng góp tới gần một nửa GDP của Việt Nam này.
Theo một báo cáo chung của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp trong năm nay chỉ vào khoảng 7,3-7,5%, mất hơn ba điểm phần trăm so với năm trước. Đây là mức thấp nhất kể từ năm 1991 đến nay và nếu gộp chung ngành xây dựng vào công nghiệp, thì giá trị tăng thêm chỉ còn chưa đầy 7%.
Hiệu quả kinh doanh giảm mạnh hơn so với giảm tốc độ tăng trưởng cho thấy khả năng cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam vẫn rất yếu và chủ yếu dựa vào lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên.
Thành tích phát triển cao về giá trị sản lượng trong những năm qua, thực chất chỉ là sự phát triển về số lượng, trong khi chất lượng thì ngày càng sa sút.
Ở thời điểm năm 2000, để đạt được một đồng giá trị gia tăng, ngành công nghiệp chỉ phải đầu tư 3,73 đồng, nhưng đến nay con số này đã lên đến 5,12 đồng. Chính việc phát triển thiên về số lượng hơn chất lượng đã khiến cho ngành này trở nên yếu sức chống chọi hơn trước khó khăn đến từ bên ngoài.
Có thể thấy, những khó khăn trong nước và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã không chừa một doanh nghiệp nào. Bầu không khí lo lắng đang bao trùm trong giới doanh nhân. Nhiều công ty đã phải thu hẹp sản xuất, đóng cửa nhà máy và bắt đầu sa thải công nhân.
Trong công nghiệp, chịu tác động nhiều nhất cho đến nay là các ngành dệt, sản xuất thép, ô tô, thủy tinh, công nghiệp cao su, dầu thực vật, phân bón và hóa chất, giày dép và vật liệu xây dựng... Đối với ngành ô tô, tuy lượng xe bán ra cho cả năm vẫn còn tăng trên 40%, nhưng mức tiêu thụ trong tháng qua giảm đến một nửa so với cùng kỳ.
Bi đát nhất có lẽ là ngành sản xuất thép xây dựng. Theo ông Bùi Xuân Khu, Thứ trưởng Bộ Công Thương, từ giữa tháng 9-2008 nhiều công ty đã phải tạm ngưng sản xuất để tiêu thụ hết hàng tồn kho.
Năm 2009 còn khó khăn hơn
Đến nay, tuy Chính phủ đã nới lỏng các biện pháp kiểm soát tín dụng, lãi vay ngân hàng cũng giảm dần xuống gần mức của những tháng đầu năm, đồng thời giá cả các loại nguyên vật liệu trên thị trường thế giới cũng rớt mạnh, nhưng triển vọng phát triển của công nghiệp không vì thế mà sáng sủa hơn, mà thậm chí còn có thể tiếp tục giảm mạnh do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo, kinh tế Việt Nam năm 2009 sẽ chỉ còn tăng 5%. Như vậy, công nghiệp chắc chắn khó mà giữ được mức phát triển, cả về tổng sản lượng lẫn giá trị gia tăng, như năm nay.
Khả năng duy trì nhịp độ tăng trưởng của công nghiệp phụ thuộc vào sức mua của thị trường nội địa và xuất khẩu.
Ở thị trường trong nước, mặc dù sức mua trong năm nay vẫn tăng xấp xỉ 30%, nhưng cũng đang có dấu hiệu suy giảm. Từ tháng 9-2008 đến nay, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của cả nước trong chiều hướng giảm liên tục, bất kể các ngân hàng đã giảm mạnh lãi suất cho vay. Đây là dấu hiệu không bình thường, nhất là khi thị trường đang vào mùa mua sắm cuối năm.
Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng sức mua của thị trường Việt Nam tăng cao trong năm 2008 là có phần đóng góp rất lớn của thành quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Nếu không có hơn 10 tỉ đô la Mỹ vốn đầu tư của các dự án FDI được giải ngân, tăng hơn gấp đôi so với năm 2007, chắc chắn sức mua của thị trường trong nước sẽ không được khả quan như vậy.
Năm 2008, Việt Nam thu hút được hơn 60 tỉ đô la Mỹ vốn FDI, tăng trên ba lần so với 2007. Nhưng vấn đề đặt ra là năm 2009 các nhà đầu tư sẽ giải ngân được bao nhiêu?
Gần 90% vốn đầu tư được cấp giấy phép trong năm 2008 là vào các ngành luyện cán thép, lọc hóa dầu và bất động sản. Hiện nay, thị trường thép thế giới đang thừa, nhiều tập đoàn thép lớn (trong đó có những công ty có dự án đầu tư ở Việt Nam) đang phải cắt giảm sản lượng sản xuất.
Kinh tế thế giới khủng hoảng cũng làm nhu cầu tiêu thụ xăng, dầu giảm. Tình trạng đóng băng trong thị trường nhà đất vẫn chưa dứt.
Trong tình hình đó, khả năng các công ty hoãn tiến độ triển khai các dự án, dẫn đến việc giải ngân vốn đầu tư bị giảm sút là khó tránh khỏi. Ngoài ra, sức mua trên thị trường thế giới suy giảm còn đẩy doanh nghiệp Việt Nam đứng trước nguy cơ bị hàng hóa tồn kho từ Trung Quốc tràn vào chiếm lĩnh thị trường nội địa. Nếu thị trường nội địa mà không giữ nổi, ngành công nghiệp sẽ lâm nguy.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Giảm lãi suất cơ bản, hỗ trợ lãi suất cho vay, giảm, “giãn” thuế… những giải pháp quyết liệt nhằm tháo gỡ khó khăn cho các DN vừa và nhỏ vừa được công bố tại cuộc họp báo cuối năm 2008 của Văn phòng Chính phủ vào tối 24/12 tại TPHCM.
Theo tin từ Bộ Công Thương, ngày 26/12, một số sản phẩm công nghiệp đang tồn đọng như: phôi thép, thép xây dựng, xi măng, phân bón, giấy, hóa chất… sẽ được hỗ trợ tiêu thụ.
Bộ Công Thương cho biết năm 2008, tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước ước đạt 63 tỷ USD, tăng trên 29,5% so với năm 2007. Đây là năm đầu tiên Việt Nam có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn nhập khẩu.
Sáng nay (25/12), Tổng Cục Thống kê đã công bố về chỉ số giá tiêu dùng trong tháng 12/2008. Theo đó, CPI tháng 12 tiếp tục ở mức âm, giảm 0,68% so với tháng 11/2008. Với mức giảm liên tục trong 2 tháng cuối năm đã đưa chỉ số giá cả năm 2008 so với tháng 12/2007 xuống dưới 20% và chỉ ở mức 19,89%. Tuy nhiên, chỉ số giá bình quân năm 2008 vẫn tăng tới 22,97% so với năm 2007.
Trong khi các nhà đàm phán phải rất vất vả có được những điều khaonr có lợi cho các doanh nghiệp trong các hiệp định khu vực thương mại tự do thì các doanh nghiệp lại đang lãng phí những ưu đãi thuế có được từ các hiệp định này.
Chính phủ đã đạt một mục tiêu ưu tiên trong năm nay, khi khống chế mức tăng giá tiêu dùng cả năm không vượt quá 24%.
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ. Vì vậy, để thu hút được khách hàng, các DN cần phải đưa chất lượng vào nội dung quản lý. Hơn thế, các DN trong các quốc gia và mọi loại hình sản xuất đều quan tâm đến chất lượng và đều có những nhận thức mới về chất lượng và ngày nay chất lượng đã trở thành một yếu tố cạnh tranh hàng đầu.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.