Bốc xếp hàng container. (Ảnh minh họa: Thanh Phàn/TTXVN).
Mất 217 giờ và 2.910 USD để vận chuyển 30 tấn hàng từ Bangkok (Thái Lan) đến Hà Nội bằng đường biển, 74 giờ và 5.500 USD bằng đường bộ, 29 giờ và 69.940 USD bằng đường không.
Những con số về chi phí thời gian và tiền bạc theo khảo sát mới nhất của các chuyên gia thuộc Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) về logistics là một minh chứng rõ nét nhất về những bất cập tồn tại trong ngành dịch vụ logistics ở ASEAN hiện nay. Nhiều thách thức
Ngày 22/8, các quan chức, các chuyên gia và doanh nghiệp hoạt động trong ngành dịch vụ logistics của ASEAN và Việt Nam đã họp tại Đà Nẵng để bàn thảo về những thách thức trên tiến trình hội nhập ngành dịch vụ logistics trong ASEAN nhằm tìm ra giải pháp giúp hàng hóa sản xuất ra đến tay người tiêu dùng nhanh nhất.
Phát biểu khai mạc hội thảo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú nhấn mạnh tự do hóa logistics là một trong những ngành ưu tiên hội nhập nhanh trong ASEAN đã được các nước ASEAN xây dựng thành lộ trình cụ thể.
Mục tiêu của lộ trình là đẩy nhanh việc tự do hóa và thuận lợi hóa các phân ngành dịch vụ logistics đến năm 2013 và trong dài hạn biến ASEAN thành trung tâm logistics trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Cẩm Tú, với vai trò là chất kết dính các công đoạn từ khâu cung ứng nguyên vật liệu đầu vào, quản lý chu trình sản xuất chung đến khâu đầu ra và phân phối thành phẩm đến tận tay người tiêu dùng, hội nhập ngành dịch vụ logistics sẽ giúp đẩy nhanh hơn nữa tiến trình liên kết giữa các ngành sản xuất trong nội bộ từng quốc gia thành viên cũng như giữa các quốc gia ASEAN với nhau, góp phần biến ASEAN thành một thị trường đơn nhất, một không gian sản xuất chung như mục tiêu đặt ra trong kế hoạch tổng thể về Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
Tại hội thảo, các chuyên gia logistics của ASEAN đều nhất trí rằng trên con đường thực hiện mục tiêu hội nhập ngành dịch vụ logistics, nhiều nước ASEAN, trong đó có Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
Theo khảo sát mới nhất, 30% giá logistics phụ thuộc vào các luật lệ, quy định về vận tải, thông quan hàng hóa, 30-40% giá logistics phụ thuộc vào mức độ trì hoãn về thủ tục hành chính...
Bên cạnh đó, sự khác biệt về tiêu chuẩn kỹ thuật, khung khổ pháp lý cũng như phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng giữa các nước và trình độ phát triển giữa các nước cũng là thách thức không nhỏ trên tiến trình hội nhập ngành dịch vụ logistics.
Đặc biệt, sự thiếu hụt về số lượng nhân lực có trình độ quản lý lĩnh vực logistics ở nhiều nước ASEAN chính là thách thức lớn hiện nay, đại diện JETRO nhấn mạnh.
Đối với Việt Nam, bên cạnh những thách thức chung, ngành dịch vụ logistics trong nước còn gặp phải vô vàn khó khăn. Điều kiện hạ tầng phần cứng còn nghèo nàn, chưa có những cảng nước sâu, cảng trung chuyển quốc tế để thu hút tàu biển có trọng tải lớn và hàng hóa trung chuyển giữa các quốc gia vào cảng Việt Nam, chưa phát triển vận tải hàng hóa bằng đường hàng không; hạ tầng đường bộ chưa hoàn chỉnh; hệ thống đường sắt chưa kết nối được nhiều với các cảng biển, các khu kinh tế, khu công nghiệp...
Thêm vào đó, hạ tầng phần mềm là sử dụng công nghệ thông tin trong quản trị điều hành, cung cấp thông tin, giao dịch điện tử quản lý hoạt động logistics cũng chưa đáp ứng được.
Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics trong nước lại đang cạnh tranh thiếu lành mạnh, thi nhau hạ giá thuê container để giành được hợp đồng. Chính vì vậy, theo ông Lê Quang Trung - Phụ trách Ban quản lý và phát triển dịch vụ logistics (Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam), hiện hầu hết các tập đoàn toàn cầu hùng mạnh trong lĩnh vực logistics trên thế giới đã “tận dụng” đúng những hạn chế này để có mặt tại Việt Nam, nắm giữ tới 80% thị phần dịch vụ logistics. Đồng bộ các giải pháp
Theo các chuyên gia logistics, giải pháp quan trọng để vượt qua thách thức chính là các nước ASEAN phải phối hợp xây dựng một chuẩn mực pháp lý và tuân thủ theo chuẩn mực này. Tuy nhiên, đây là quá trình mất nhiều thời gian vì liên quan đến luật pháp và quy định của từng nước. Trước mắt, Ban Thư ký ASEAN sẽ rà soát các thủ tục, các thỏa thuận về hải quan đã ký để đánh giá mức độ thực thi; từ đó có các giải pháp thích hợp nhằm tạo cơ chế mở cửa trong các quốc gia thành viên và trong toàn ASEAN.
Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Đoàn Duy Khương cho biết với tư cách đại diện cho tiếng nói và quyền lợi của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, VCCI đã phối hợp chặt chẽ với Phòng thương mại và công nghiệp ASEAN, Hội đồng tư vấn kinh doanh ASEAN để xây dựng “hành lang xanh” (ASEAN green land) tạo điều kiện cho hàng hóa, dịch vụ... của các doanh nghiệp trong ASEAN đi lại nhanh chóng.
Thông qua dự án “hành lang xanh” với việc áp dụng công nghệ thông tin vào khai hải quan điện tử, các doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí nhờ giảm thời gian thông quan tại các cửa khẩu.
Theo ông Khương, với sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa 6 nước ASEAN cũ và 4 nước CLMV (Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam), trước mắt, “hành lang xanh” chưa thể giúp doanh nghiệp các nước CLVM hưởng lợi trực tiếp. Tuy nhiên, từ thực tiễn triển khai mô hình “hành lang xanh,” các nước CLMV có thể học hỏi kinh nghiệm để đến khi đạt đủ điều kiện cần thiết có thể áp dụng ngay mô hình này vào thực tiễn.
Phía VCCI sẽ tập hợp và làm cầu nối cho các doanh nghiệp Việt Nam trong ngành logistics, các ngành phụ trợ, các hiệp hội chuyên ngành vận tải tham gia trực tiếp vào các dự án nâng cao năng lực quản lý logistics của ASEAN với các đối tác giàu kinh nghiệm như JETRO, Viện Nghiên cứu kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA)...
Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực từ phía cộng đồng doanh nghiệp, việc tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các khu vực kinh tế FDI, nhà nước, tư nhân thông qua các chính sách hỗ trợ về vốn và đất đai hạ tầng sẽ là giải pháp hữu hiệu giúp ngành dịch vụ logistics của Việt Nam hội nhập thành công trong trong ASEAN.
Theo ước tính của Viện Logistics châu Á-Thái Bình Dương, trị giá của dịch vụ logistics toàn cầu đạt trên 1.200 tỷ USD/năm, chiếm tới 16% tổng GDP toàn cầu. Trong đó, nếu giảm 10% chi phí vận chuyển có thể làm tăng 20% lưu lượng thương mại hay giảm một nửa chi phí vận chuyển có thẻ làm tăng 0,5% tổng GDP với mỗi quốc gia.
Tại Việt Nam, tiềm năng phát triển dịch vụ logistics còn rất lớn bởi kim ngạch xuất khẩu được dự báo sẽ đạt ngưỡng 200 tỷ USD trong 10 năm tới./.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Những tác động đa chiều của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến nền kinh tế Việt Nam là nội dung chính của tọa đàm "Bối cảnh quốc tế sau khủng hoảng tài chính thế giới và ảnh hưởng đến Việt Nam".
Việc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa VND và USD từ ngày 18/8/2010 từ mức 18.544 VND/USD lên mức 18.932 VND/USD và giữ nguyên biên độ tỷ giá ở mức +/-3% đã thu hút được nhiều sự quan tâm từ các nhà đầu tư cũng như giới phân tích ở nhiều góc độ khác nhau.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, thiết kế thị trường phát điện cạnh tranh Việt Nam (VCGM) sẽ được đưa vào vận hành trong năm 2011. Thực hiện lộ trình phát triển thị trường điện đã được Thủ tướng phê duyệt, Bộ Công thương đã giao cho Cục Điều tiết điện lực triển khai việc thiết kế thị trường phát điện cạnh tranh Việt Nam và hệ thống các quy định đồng bộ cho hoạt động của thị trường.
Nhằm giới thiệu những nội dung cơ bản của dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020, tiếp theo bài viết "Phát triển nhanh và bền vững là quan điểm xuyên suốt trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta", Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tiếp tục đăng bài viết này của đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Để quản lý “cấp bách” hoạt động game online, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành công văn yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet, từ 1/9 tới, cắt dịch vụ tới các đại lý theo giờ quy định của địa phương (khoảng từ 23h - 6h sáng hôm sau).
Theo Tổng cục Thống kê, mặc dù CPI tháng 8 của hai “đầu tàu” kinh tế là Thành phố Hồ Chí Minh giảm 0,25% và Hà Nội tăng rất nhẹ là 0,15% nhờ triển khai quỹ bình ổn giá các mặt hàng thiết yếu, nhưng vẫn không đủ sức “ghìm” mức tăng giá tại nhiều địa phương.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.