Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Phát triển đại học ở Nhật và gợi ý cho Việt Nam

tinkinhte.comNhật có lẽ là một trong những quốc gia châu Á thành công nhất về giáo dục đại học. Các đại học của Nhật đứng trong hàng ngũ các đại học danh tiếng trên thế giới. Ngày nay các đại học Nhật còn đào tạo rất nhiều nhà khoa học cho các nước châu Á, kể cả Việt Nam. Do đó, tìm hiểu và suy nghiệm quá trình phát triển giáo dục đại học ở Nhật có thể cung cấp cho chúng ta vài bài học có ích.

Bốn giai đoạn phát triển của đại học Nhật

 Theo tôi thấy, quá trình phát triển đại học ở Nhật có thể chia làm bốn giai đoạn như sau: (1) Thời kỳ Tây phương hóa (1868-1886); (2) Thời kỳ cách mạng kỹ nghệ và đại học (1886-1914); (3) Thời kỳ phát triển kỹ nghệ, chiến tranh, và “bành trướng” của hệ thống đại học (1914-1945); và (4) Thời kỳ hậu chiến (1945 cho đến nay).

Bốn giai đoạn phát triển hệ thống giáo dục đại học của Nhật cũng có thể cung cấp cho chúng ta một vài bài học và kinh nghiệm đáng tham khảo. Đáng tham khảo bởi vì Nhật cũng xuất phát từ một nước nông nghiệp, và cũng kinh qua một thời gian chiến tranh khốc liệt.

Giai đoạn 1:Tây phương hóa. Được khởi xướng từ thời Minh Trị Thiên Hoàng từ năm 1868. Trong giai đoạn này, Nhật cảm thấy bị đe dọa bởi các thế lực quân sự và kỹ nghệ của thế giới phương Tây, nhưng họ thấy đó là một cơ hội để tái cấu trúc hệ thống chính trị, xã hội và kinh tế, chuẩn bị cho sự nghiệp kỹ nghệ hóa đất nước. Minh Trị nhận thức rằng Nhật cần phải nắm lấy và làm chủ những “know-how” của phương Tây.

Năm 1877, Đại học Tokyo được thành lập (trước đây trường này chỉ là một trường cao đẳng dạy ngoại ngữ và y học cổ truyền). Đại học Tokyo lúc đó có 4 khoa: luật khoa, khoa học, văn khoa và y khoa. Trong giai đoạn phát triển này, phần lớn giáo sư là người ngoại quốc. Trong số 36 giáo sư, có đến 23 người là giáo sư từ Anh, Pháp, Đức và Mỹ. Ngay cả những giáo sư người Nhật cũng là những người từng tốt nghiệp từ các nước vừa kể.

Trong thời gian 20 năm sau đó, có đến 400 giáo sư từ các nước phương Tây được Bộ Giáo dục Nhật mướn (hay mời) dạy tại các đại học và cao đẳng trên khắp nước Nhật. Không chỉ trong ngành giáo dục, Nhật còn mướn các chuyên gia phương Tây để làm việc và hướng dẫn trong các ngành như khai thác hầm mỏ, đường sắt, điện lực, điện tín, hãng xưởng…

Cùng lúc với sự hình thành của Đại học Tokyo, Nhật tích cực gửi sinh viên sang các nước phương Tây theo học tại các trường danh tiếng trên thế giới. Những “hạt nhân” đó sau này nắm giữ những chức vụ quan trọng trong hệ thống đại học và chính quyền.

Giai đoạn 2: Cách mạng kỹ nghệ và đại học. Giai đoạn này được đánh dấu qua việc thiết lập hệ thống “đại học vương triều” (Imperial University System), và định hướng rõ ràng rằng giáo dục phải phục vụ cho các mục tiêu của nhà nước. Năm 1890, [Đại học] Tokyo Imperial University được cho phép thành lập thêm một khoa mới: đó là khoa nông học. Năm 1897, [Đại học] Kyoto Imperial University được thành lập theo mô hình của Đại học Tokyo. Kể từ đó, một số đại học trong hệ thống vương triều được thành lập, như Tohoku Imperial University (1907), Kyushu Imperial University (1910). Cả hai trường mới này chuyên về khoa học ứng dụng.

Thời gian mà các đại học vương triều ra đời trùng hợp với giai đoạn cách mạng kỹ nghệ ở Nhật. Cuộc cách mạng kỹ nghệ chủ yếu xảy ra ở ngành dệt và kỹ nghệ nhẹ, và chính các ngành “nhẹ” này đã là những viên gạch lót đường để Nhật trở thành một cường quốc kỹ nghệ sau này. Các đại học vương triều có nhiệm vụ phải đào tạo các kỹ sư và khoa học gia, chuyên gia để đáp ứng nhu cầu của cuộc cách mạng kỹ nghệ.

Mặc dù ý thức được rằng đại học còn phải đào tạo các nhà nghiên cứu, nhưng trong giai đoạn mà công nghệ của Nhật còn quá thô sơ, họ chủ yếu nhắm vào việc đào tạo chuyên gia lành nghề, và việc đào tạo chuyên gia nghiên cứu chỉ tập trung ở các đại học lớn như Tokyo và Kyoto.

Song song với sự ra đời của các đại học vương triều, Nhật còn thành lập một số trường cao đẳng kỹ thuật (technical college). Các trường cao đẳng có nhiệm vụ giới thiệu các công nghệ của thế giới phương Tây nhưng có ứng dụng thực tế vào điều kiện phát triển ở Nhật. Đến năm 1910, Nhật đã có 17 trường cao đẳng kỹ thuật, và mỗi năm huấn luyện được hàng ngàn chuyên viên kỹ thuật.

Trong thời kỳ này, Nhật còn có một số đại học tư thục, tuy lúc đó các trường này chưa được công nhận là “đại học” mà chỉ là những “trường đặc biệt” (special schools). Mãi đến năm 1918 các trường đại học tư thục mới được chính thức công nhận là đại học. Sau này, một số trường tư thục đó trở thành những đại học danh tiếng. Chẳng hạn như Đại học Keio được thành lập năm 1868 (do gia đình của Fukuzawa Yukichi thành lập), Đại học Doshisa (của Niijima Jo lập năm 1875), Đại học Waseda (do Okuma Shigenobu lập năm 1882) đã có công đào tạo các chuyên gia kỹ thuật và quản lý cho các công ty tư nhân, và đóng góp một phần lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa của Nhật.

Giai đoạn 3:Hậu chiến và phát triển. Trong thời gian chiến tranh, Nhật đã làm được một điều kỳ diệu: phát triển đại học và kỹ nghệ. Cuộc chiến Nga - Nhật (1904-1905) là giai đoạn Nhật “củng cố lực lượng” để xây dựng và bành trướng thực lực quân sự. Đến thế chiến 1914-1918 thì thực lực quân sự của Nhật đã được chứng minh.

Thế chiến thứ nhất là động cơ để Nhật tiến hành một cuộc cách mạng kỹ nghệ thứ hai. Trong cuộc cách mạng này, Nhật tập trung vào kỹ nghệ nặng như đóng tàu, sản xuất sắt thép, sản xuất máy kỹ nghệ, hóa học… Trong thời gian 1915-1918, sản lượng kỹ nghệ của Nhật tăng sáu lần, và lần đầu tiên, sản lượng kỹ nghệ qua mặt sản lượng nông nghiệp, biến Nhật thành một nước công nghiệp tiên tiến.

Năm 1918 đạo luật thành lập các đại học địa phương và đại học vùng ra đời. Đạo luật còn cho phép thành lập các đại học chuyên ngành như đại học chuyên về kỹ thuật, kinh tế, nông học…

Đến năm 1930, Nhật đã có bảy đại học vương triều, với ba đại học mới là Hokkaido, Osaka và Nagoya. Các đại học vương triều mới này chuyên về khoa học và công nghệ. Trong cùng thời gian này, các đại học cũ hơn như Tokyo và Kyoto bắt đầu thành lập các viện nghiên cứu trong và ngoài đại học. Phần lớn các viện nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu về vật lý, hóa học, công nghệ hàng không. Trong giai đoạn này, Nhật đã có một hệ thống đại học hoàn chỉnh và tạo được một nền tảng cho phát triển khoa học kỹ thuật trong tương lai.

Giai đoạn 4: Hoàn thiện. Giai đoạn phát triển thứ tư này kéo dài từ Thế chiến thứ hai cho đến nay. Trong giai đoạn đầu sau khi Nhật đầu hàng, tương lai nước Nhật nằm trong tay của lực lượng chiếm đóng, và tương lai đất nước còn khá mập mờ. Năm 1949, chính quyền chiếm đóng đề nghị một cuộc tổng cải cách giáo dục trên toàn quốc. Theo đó, tất cả các đại học - từ hệ thống đại học vương triều đến đại học địa phương và tư thục - đều phải theo một chương trình đào tạo thống nhất: đó là bốn năm cho cấp cử nhân. Đến năm 1950, Nhật đã có 201 trường đại học, cao đẳng và viện nghiên cứu.

Đến năm 1952, khi Nhật được trao quyền tự trị, tương lai của Nhật có vẻ rõ ràng hơn. Người Nhật nhận thức rõ rằng để tồn tại trên thế giới với sự hạn chế tài nguyên thiên nhiên, Nhật tùy thuộc rất lớn vào khả năng kỹ nghệ. Để phát triển kỹ nghệ, họ cần phải phát triển hệ thống giáo dục đại học đến một tầm cao hơn. Năm 1956, một tài liệu về giáo dục cao đẳng của Anh (White Paper on Technical Education) được dịch sang tiếng Nhật, và trở thành một tài liệu tham khảo quan trọng, một kim chỉ nam cho hệ thống giáo dục đại học của Nhật sau này.

Năm 1956, Cục Khoa học và Công nghệ được thành lập, và năm 1960 Hội đồng Khoa học và Công nghệ đề xuất một số chính sách để phát triển khoa học và công nghệ trong vòng 10 năm. Những đề nghị này trở thành định hướng phát triển và hoàn thiện hệ thống đại học cho đến ngày nay.

Ngày nay, Nhật có hơn 725 trường đại học và 518 trường cao đẳng. Chất lượng đào tạo đại học của Nhật được thế giới công nhận. Hiện nay, Nhật có 11 trường đại học được xếp vào hạng “top 200” trên thế giới, với Đại học Tokyo (hạng 19) và Kyoto (hạng 25). Trong thời gian 1997-2001, các nhà khoa học Nhật công bố khoảng 336,858 bài báo khoa học, chiếm 9,3% tổng số bài báo khoa học trên thế giới. Số ấn phẩm khoa học của Nhật đứng vào hàng thứ tư trên thế giới, chỉ sau Mỹ, Liên hiệp châu Âu, Anh và Đức.

Những bài học kinh nghiệm

Xem qua quá trình hình thành và phát triển của Nhật, tôi thấy có một số bài học hay kinh nghiệm có thể tham khảo.

Thứ nhất là nhờ Tây phương hóa. Một đặc điểm nổi bật nhất của hệ thống giáo dục đại học Nhật là mô hình phương Tây. Thật ra, từ thế kỷ 19, Nhật đã quyết định lấy phương Tây làm chuẩn cho giáo dục! Ngay từ đó, Nhật đã du nhập kiến thức và kỹ năng của phương Tây vào một nước có nền văn hóa phương Đông.

Ngay từ thế kỷ 19, Nhật đã không ngần ngại bỏ ra một số tiền lớn để mướn các giáo sư và chuyên gia phương Tây đến giảng dạy tại các đại học Nhật. Theo thống kê, năm 1873, Bộ Giáo dục Nhật chi đến 14% ngân sách giáo dục cho các giáo sư ngoại quốc. Có điều đáng chú ý là họ chỉ Tây phương hóa những lĩnh vực họ cần (như kỹ thuật) chứ không phải Tây phương hóa nền văn hóa cổ truyền của họ.

Thứ hai là sự phối hợp nhịp nhàng giữa giáo dục và kỹ nghệ. Trong giai đoạn đầu kỹ nghệ hóa, Nhật không có một chiến lược phát triển có hệ thống hay có kế hoạch. Tuy nhiên, chính phủ có chính sách khuyến khích giới kỹ nghệ phát triển giáo dục và khoa học.

Xuất phát từ chính sách này, nhiều trường đại học tư thục được thành lập, và cho đến nay, trong số hơn 725 đại học, có đến 565 (78%) là đại học tư thục do giới kỹ nghệ hay các tôn giáo sáng lập. Nhà nước và giới kỹ nghệ có sự phối hợp tốt để đảm bảo công ăn việc, làm cho sinh viên khi tốt nghiệp. Quá trình phát triển các đại học tư thục cũng thể hiện đóng góp quan trọng của giới kỹ nghệ trong việc nâng cao giáo dục cho quốc dân ở Nhật.

Thứ ba là tự chủ. Trong giai đoạn đầu phát triển, các đại học chịu sự chỉ đạo của chính phủ, nhưng đến giai đoạn 2 trở đi, các đại học được tự quản. Trong giai đoạn đầu, các đại học Nhật “vận hành” chủ yếu với chức năng tiếp thu và chuyển giao công nghệ của phương Tây vào môi trường kinh tế xã hội Nhật. Khi giai đoạn du nhập đã qua, các đại học trở nên tự chủ, và tự do hơn trong giảng dạy và nghiên cứu. Năm 1919, các giáo sư được quyền chọn hiệu trưởng và đồng nghiệp.

Thứ tư là chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa quốc tế. Ai cũng biết người Nhật có tinh thần quốc gia rất cao. Ấy thế mà họ chẳng những chấp nhận mà còn tích cực du nhập tri thức và kỹ thuật từ phương Tây. Trong giai đoạn đầu, các đại học Nhật chủ yếu phục vụ cho quyền lợi của Nhật, như ngay cả các đại học vương triều cũng có sứ mệnh cụ thể là sáng tạo ra tri thức nhằm phục vụ quốc gia. Nhưng sau khi đã ổn định và nhận thức được rằng thế giới càng ngày càng liên đới nhau, các đại học Nhật bắt đầu vươn ra ngoài Nhật theo tinh thần chủ nghĩa quốc tế.

Sinh viên Đại học Nông Lâm TPHCM trong một chương trình cổ động bảo vệ môi trường.

Ở Việt Nam, đã có nhiều bàn luận về giáo dục đại học, nhưng hình như cho đến nay chính phủ vẫn chưa đồng ý với một mô hình nào. Tuy nhiên hầu như bất cứ ai quan tâm đến giáo dục nước nhà đều muốn có một cuộc cải cách toàn diện giống như Nhật. Theo tôi, những lĩnh vực cần cải cách là:

Cải cách tổ chức. Hiện nay, theo số liệu thống kê, Việt Nam đã có 376 trường đại học; hơn 70% trong số này mới được thành lập trong năm năm qua! Nhưng tiêu chuẩn thế nào là một đại học vẫn chưa được rõ ràng mấy, hay có những quy định về tiêu chuẩn nhưng còn nặng tính hành chính chứ không khoa bảng. Có thể nói không ngoa rằng rất nhiều đại học hiện nay không phải là đại học theo chuẩn mực quốc tế. (Gần đây, chúng ta đã thấy “Đại học Phan Thiết” như thế nào). Do đó, cần phải rà soát lại và nếu cần giải tán những trường không đủ tiêu chuẩn hay sáp nhập với các trường khác.

Cải cách hệ thống lương bổng. Đại học là nơi tập trung những thành phần trí thức ưu tú và là cái nôi phát triển và nuôi dưỡng nhân tài. Nhưng điều đáng buồn ở Việt Nam ngày nay là đại học không có sức thu hút nhân tài, vì lương bổng quá thấp, không đủ nuôi sống những nhà khoa học có tài thực sự. Vì thế, cần phải ổn định một số nhỏ nhà nghiên cứu làm nghiên cứu cơ bản qua tăng lương một cách xứng đáng cho họ.

Một nhà khoa học không thể nào nghiên cứu trong khi cứ nơm nớp lo nghĩ đến miếng ăn hàng ngày. Cần phải có chính sách cụ thể khuyến khích các nhà khoa học làm nghiên cứu ứng dụng, qua đó tăng khả năng thu nhập riêng cho họ và cho trường đại học.

Giảng dạy. Trong khi các trường đại học ta đang thiếu thốn giảng viên một cách nghiêm trọng, số lượng được đào tạo trong nước chẳng là bao. Theo như một thống kê gần đây, trong vòng 30 năm qua, kể từ khi có quyết định chương trình đào tạo hậu đại học trong nước, trung bình mỗi năm cả nước chỉ đào tạo trên dưới 650 thạc sĩ và tiến sĩ, một con số rất khiêm tốn, có khi còn thấp hơn con số của một trường lớn ở các nước phương Tây.

Rõ ràng, một số lớn này phải được đào tạo từ nước ngoài. Do đó, Việt Nam cần mạnh dạn gửi học sinh và giảng viên ra nước ngoài học hậu đại học nhiều hơn nữa. Nhưng đơn thuần gửi sinh viên ra ngoài học là một phương án tương đối đắt giá.

Tôi nghĩ một phương án khác đỡ tốn kém hơn là qua đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu với các đại học nước ngoài, để qua đó tạo điều kiện cho cộng tác viên phía Việt Nam có cơ hội làm luận án và đào tạo được thêm chuyên viên nghiên cứu và giảng viên cho Việt Nam với kinh phí vừa phải.

Nghiên cứu khoa học. Một sự thật mà những ai hoạt động trong khoa học đều phải công nhận là sự hiện diện của các nhà khoa học ở trong nước trên trường quốc tế còn quá khiêm tốn. Để nâng cao chất lượng người được đề bạt và khuyến khích nghiên cứu khoa học, tôi đề nghị tiêu chuẩn được đề bạt không nên được căn cứ hay đặt nặng vào số lượng bài báo công bố, mà nên đặt nặng vào chất lượng của những bài báo đó.

Ở Mỹ, có nhiều giáo sư thực thụ chỉ có 30 hay 40 bài báo (tất nhiên là có chất lượng, được đồng nghiệp trên thế giới ghi nhận), không cần đến con số 100 như các nước khác. Ở các nước phương Tây ngày nay, chất lượng các bài báo đã được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế, thường được xem là những thước đo chuẩn về khả năng làm khoa học của người giữ các chức vụ khoa bảng trong đại học hay các viện nghiên cứu. Một người mang hàm “giáo sư” mà “vô danh” trên trường quốc tế trong lĩnh vực hoạt động của mình là một điều không thể chấp nhận được.

Cơ sở vật chất. Tất cả các đại học ở Việt Nam đều quá nghèo nàn về cơ sở vật chất. Thư viện quá nhỏ và thiếu sách, tạp chí khoa học trầm trọng. Phòng thí nghiệm cũng cực kỳ khiêm tốn. Đặc biệt là hệ thống Internet quá yếu.

Ngày nay, ở các nước như Mỹ và châu Âu, nếu không có hệ thống Internet chắc có lẽ trường đại học sẽ ngưng hoạt động! Tôi đã từng hướng dẫn thành công vài du học sinh chỉ qua điện thư! Trong khi đó, số lượng học sinh, sinh viên và các nhà khoa học ở trong nước có điều kiện truy nhập vào mạng Internet còn quá ít.

Do đó, giúp đỡ và tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu, sinh viên, học sinh tham gia vào cuộc cách mạng về công nghệ thông tin này cần phải được đưa lên một trong những quốc sách hàng đầu trong nền giáo dục. Tôi đề nghị Nhà nước nên dành một ngân khoản xứng đáng cho tất cả các trường đại học được nối vào một mạng chung.

Kiểm tra chất lượng. Ngay bây giờ, cần có một ủy ban có nhiệm vụ chính là nghiên cứu phương pháp giảng dạy, đề ra tiêu chuẩn đồng nhất về đào tạo (kể cả sách giáo khoa) và thẩm tra chất lượng đào tạo cho tất cả các trường đại học và cơ sở đào tạo cấp đại học hay sau đại học. Ủy ban này nên độc lập với Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhưng phải có đại diện của bộ, của các trường đại học, của chính quyền địa phương, các nhà doanh nhân, cơ sở nghiên cứu và các nhà khoa bảng ở nước ngoài. Ở Nam Phi trong các thập niên 70 và 80, ủy ban kiểm tra chất lượng đào tạo đại học này đã rất thành công trong việc nâng cao chất lượng sinh viên của họ.

Việt kiều. Trong hầu như tất cả các ngànhh khoa học và trong nhiều đại học trên thế giới, đều có sự hiện diện của người Việt; trong số này, có nhiều người giữ chức vụ khoa học quan trọng, có khả năng khoa học kỹ thuật cao, có kinh nghiệm lâu năm trong nghiên cứu khoa học, có uy tín lớn với các cơ quan cung cấp tài chính cho nghiên cứu, và quan trọng hơn nữa, là họ có tâm huyết với nền giáo dục trong nước.

Thế nhưng cho tới nay, mặc dù có sự cộng tác cá nhân giữa vài nhà khoa học ở ngoài và các trường, viện nghiên cứu trong nước, việc huy động và sử dụng nguồn nhân lực khoa học này vẫn chưa được tiến hành một cách có hệ thống.

Bộ Giáo dục và Đào tạo nên xúc tiến một ngân hàng dữ liệu về các nhà khoa học gốc Việt đang làm việc ở nước ngoài trong các lĩnh vực khoa học. Và từ đó, có chính sách cụ thể và tích cực nhằm tạo điều kiện cho các nhà khoa học gốc Việt ở nước ngoài có cơ hội giảng dạy, tham gia vào việc thẩm định các luận án sau đại học và nghiên cứu ở trong nước.

Ở nước ta, năm 2020 thường được đề cập đến như một cái mốc thời điểm để hoàn thành công cuộc kỹ nghệ hóa và hiện đại hóa đất nước. Thời gian 20 năm không phải là dài, nếu không muốn nói là quá ngắn, cho một mục tiêu đầy thử thách và tham vọng này.

Những ai quan tâm tới nền giáo dục trong nước đều nhận ra rằng việc cải cách nền giáo dục là cần thiết. Vấn đề cải cách giáo dục và chất lượng giáo dục cần phải được giải quyết ngay từ bây giờ, không thể dần dà để 5 hay 10 năm nữa, nếu ta không muốn bị thế hệ sau phê phán là đã thụ động.

(Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn)

  • Bốn chuyển biến tích cực sau khi gia nhập WTO
  • Cẩn trọng với CPI tháng 1?
  • 10 sự kiện kinh tế - xã hội nổi bật năm 2009
  • VN thuộc nhóm nước tăng trưởng kinh tế nhanh
  • 2010: Thời điểm nhìn lại lý thuyết phát triển và chính sách kinh tế Việt Nam
  • Giá bán lẻ xăng dầu - gánh nặng của người dân!
  • Thách thức 2010
  • Thuyền nhỏ đương đầu với bão táp
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi