Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại Nguyễn Thành Đô - Ảnh: Anh Quân.
Số liệu về nợ nước ngoài của Việt Nam đến cuối năm 2010 mà Bộ Tài chính vừa công bố phần nào làm dấy lên những lo ngại về an toàn nợ.
"Cà phê cuối tuần" kỳ này, VnEconomy trò chuyện với Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính), ông Nguyễn Thành Đô, xung quanh chủ đề đã thu hút sự quan tâm của nhiều bạn đọc trong tuần: nợ nước ngoài.
Vay được là tốt
Nếu nhìn vào các chỉ tiêu nợ tăng liên tục qua các năm, theo ông có đáng lo ngại không?
Hiện tại, do trong nước nhu cầu đầu tư rất lớn, rồi đầu tư phát triển thì có bội chi ngân sách, phải có bù đắp, cân đối trong nước không đủ, nên không thể không vay được. Nếu anh muốn phát triển kinh tế, đảm bảo tăng trưởng GDP thì phải vay thôi.
Đi vay thì bao giờ cũng có giai đoạn đầu tư tập trung, theo thông thương, thời gian đầu đi vay thì dư nợ bao giờ cũng tăng dần, đến lúc nào đó ở mức độ hạ tầng cơ sở đã tốt rồi, có thể vay trong nước thì sẽ giảm dần vay nước ngoài. Còn trường hợp sau này ngân sách không có bội chi nữa thì có thể không cần vay. Cân bằng thu chi mà trả được dần thì nợ đi xuống.
Bây giờ nếu bảo vay nhiều như thế có ngại không? Vay được mà sử dụng được tốt, vay một đồng làm ra hai, ba đồng thì là tốt. Ví như như doanh nghiệp mà không đi vay thì làm sao phát triển được. Hay cá nhân gia đình mình, nếu tích lũy không đủ, muốn mua nhà, mua đất thì phải đi vay. Nếu mình có nguồn thu, tích lũy được trả nợ thì là tốt.
Trong khi mình vay dễ dàng, người ta tin mình, tin vào triển vọng của mình thì mới cho vay được. Người ta ủng hộ chính sách kinh tế của mình, giúp đỡ mình nguồn tài chính để phát triển thì là tốt. Có những nước như Hy Lạp, khi bị khủng hoảng ra ngoài thị trường vay cũng không ai cho vay.
Thế còn bây giờ bảo cao hay không, cũng là câu chuyện. Cho đến nay, trong chiến lược phát triển tài chính, tỷ lệ nợ nước ngoài vẫn nói là không quá 50% GDP. Với nợ nước ngoài, đến cuối năm 2010 xác định là 42,2% GDP, tức là vẫn giữ dưới 50%, có nghĩa là vẫn ở mức độ an toàn.
Tuy nhiên mình sẽ còn phải đánh giá thực sự trên các chỉ số giám sát khác nữa chứ tổng nợ nước ngoài trên GDP là một chỉ tiêu tổng hợp, mang tính hết sức tương đối. Ngoài ra phải kết hợp rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá nợ nước ngoài của Việt Nam.
Về chỉ tiêu tổng quát nợ nước ngoài trên GDP, cho đến nay chưa có một thực tiễn trên thế giới nào cho thấy đồng nhất với nhau cả, chỉ có mỗi một nước tìm ra một mức giới hạn và quy định cho mình.
Ví dụ các nước EU quy định tổng hạn mức nợ công là 60% GDP. Ngân hàng Thế giới tổng hợp rất nhiều trường hợp và đưa ra khuyến cao nợ nước ngoài chỉ nên dưới 50% GDP. Nhưng cũng không phải nước nào cũng theo tiêu chí này, có nhiều nước đã “phá” mức này rồi. Các nước châu Âu hiện nay có những nước đến 80-90% GDP, thậm chí vượt 100% GDP.
So với những nước có hệ số tín nhiệm tương tự Việt Nam, thì nợ nước ngoài của ta ở mức như thế nào?
Nói chung, so với các nước quanh chúng ta mà có cùng hệ số tín nhiệm như Philippines hay một số nước khác như Thổ Nhĩ Kỳ… mức nợ của chúng ta gần như tương đương. Các nước khác có nợ chiếm khoảng từ 38% đến 47% GDP. Mình chưa phải là nước có nợ quá cao.
Bộ Tài chính cũng đang làm chiến lược quản lý nợ từ nay đến 2020, tầm nhìn đến 2030, trong đó cũng có kiến nghị mức trần nợ công, gồm có nợ nước ngoài và nợ trong nước. Trần đó có thể tính toán cho phù hợp với quy mô của nền kinh tế, có thể sẽ thay đổi.
Mọi người cứ nhìn theo khuyến cáo của Ngân hàng Thế giới là khít lại 50%, cái đó không phải. Nó phải linh hoạt. Cái quan trọng là mỗi đồng vốn vay về, mình làm ra được hiệu quả hai ba lần thì nợ có lên đến 60% cũng chẳng vấn đề gì, nếu nền kinh tế của mình hấp thụ được lượng vốn đó và tạo ra nguồn thu thì vay được là yếu tố để phát triển.
Chứ vay được một đồng mà làm ra nửa đồng thì đấy mới là đáng quan ngại. Tức là cái quan ngại nên là hiệu quả sử dụng đồng vốn, là cái mà chúng ta phải tập trung vào. Còn chỉ số chỉ là để đánh giá tổng quát và tương đối thôi. Tất nhiên nó cũng là một tín hiệu, nhưng không phải cứ 42% là sốt ruột lên, lại bảo nhiều quá, không đi vay nữa.
Không vay thì lấy gì để phát triển, khi chúng ta còn bao nhiêu đường cao tốc, bến cảng, sân bay… không vay lấy gì làm động lực phát triển trong 10 năm tới, 20 năm tới! Thì mình phải đầu tư từ bây giờ nó mới phát huy hiệu quả trong 10 năm sau, 20 năm sau.
Theo Thông tư 56 về xác định hạn mức nợ có chi tiết đáng chú ý là nếu tăng trưởng năm liền trước cao hơn lãi suất bình quân các khoản vay trung dài hạn thì tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP năm sau sẽ tăng lên. Điều này có đồng nghĩa nợ sẽ vượt mọi trần quy định?
Bởi vì khi tăng trưởng GDP của mình hơn mức lãi suất thì tất cả phần lãi suất ăn vào tăng trưởng còn dư. Mình vay về là gốc, trả là cả gốc lẫn lãi, nếu tăng trưởng thấp hơn lãi suất thì áp lực trả nợ lãi nhiều sẽ ảnh hưởng đến các chỉ số nợ.
Nhưng cho đến nay, lãi suất bình quân của mình vẫn đang thấp hơn tăng trưởng GDP. Ví dụ như năm 2010 này lãi suất bình quân các khoản nợ nước ngoài xác định lại là khoảng 2,9%.
Lãi vay tăng là bình thường
Trong một hội thảo về nợ công cách đây 1-2 năm, ông có thông báo mức lãi suất bình quân các khoản nợ nước ngoài khoảng 2,1%. Vì sao tốc độ tăng lãi suất lại cao như vậy?
Vì mình đi vay lãi suất ngày càng đắt lên. Thứ nhất là ODA ngày xưa mình vay toàn 1-2%, hiện giờ Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á đều tăng lãi suất lên, do mình đã vào nhóm nước có thu nhập trung bình, nên lãi suất vay ngày càng kém ưu đãi.
Cái thứ hai là tỷ trọng vay thương mại với lãi suất cao tăng lên, cho nên phản ánh ngược lại vào lãi suất bình quân sẽ cao lên thôi. Cái ấy là bình thường.
Ông có thấy việc Việt Nam bị hạ bậc định mức tín nhiệm trong thời gian qua có ảnh hưởng đến lãi suất không?
Ảnh hưởng cực kỳ nhiều. Ví dụ như mỗi bậc định mức tín nhiệm, đang từ bậc này chuyển sang bậc kia sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ quốc gia trong vấn đề vay nợ nước ngoài.
Ảnh hưởng thứ nhất là lãi suất sẽ rất khác, ảnh hưởng thứ hai là mức phí và ảnh hưởng thứ ba là các điều kiện vay. Ví dụ như Mỹ vừa rồi, bị đánh tụt hạng là người ta tính ngay được sẽ có thể thiệt hại hàng trăm tỷ USD.
Thế cho nên, các nước rất quan tâm cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia. Muốn như vậy thì phải làm rất nhiều thứ để đáp ứng các yêu cầu để người ta đánh giá, ví dụ như cung cấp đầy đủ thông tin một cách minh bạch, thường xuyên cập nhật thông tin về những tiến bộ trong nền kinh tế của mình…
Bản thân chính sách vĩ mô của mình cũng phải rõ ràng, rồi việc thực hiện những khuyến nghị của người ta như về khắc phục yếu kém trong hệ thống ngân hàng, hay cải thiện dự trữ ngoại hối, rồi những biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thu hút ngoại tệ, giảm bội chi ngân sách… rất nhiều thứ.
Nó sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức định mức tín nhiệm khi đánh giá mình thì người ta sẽ phân tích được, dự báo được nền kinh tế của mình, thì hệ số tín nhiệm mới dần cải thiện. Chứ của ta hiện nay những thông tin ra thị trường thế giới còn ít, chưa cập nhật nên bản thân những doanh nghiệp, giới đầu tư quốc tế rất thiếu thông tin về Việt Nam.
Thế là mình thiệt thôi, vì khi người ta không có đủ thông tin để đánh giá một cách khách quan. Thường là người ta vẫn kêu mình thiếu minh bạch, thiếu nhiều số liệu, khi yêu cầu cung cấp thì mình không cung cấp được.
Rồi bản thân số liệu của mình giữa cơ quan này với cơ quan khác không trùng khớp, tạo ra tâm lý lo lắng cho người ta, thậm chí có thể dẫn tới nghi ngờ con số. Dẫn tới là họ sẽ dùng con số của họ, mà con số đó thì mình cũng không biết họ lấy ở đâu cả. Nhưng mà người ta có quyền đánh giá.
Cho nên, các nước người ta rất quan tâm cải thiện hình ảnh đất nước của mình để tăng hệ số tín nhiệm quốc gia, và từ đó, mỗi một lần tăng như thế thì đi vay lãi suất sẽ thấp đi, phí cũng thấp đi, điều kiện vay cũng dễ dàng hơn.
Một điểm quan trọng khi nói đến lợi thế vay nước ngoài hiện nay của Việt Nam là lãi suất thấp hơn vay trong nước. Nhưng theo dõi bản tin số 7 thì tỷ giá cuối kỳ năm 2010 so với năm 2009 tăng trên 10%. Như vậy liệu có rẻ thật?
Vấn đề tỷ giá đó là việc trong nước của mình. Điều chỉnh như thế thì mình phải chịu thôi. Ví dụ đợt vừa rồi, khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá lên thì dù mình không vay thêm gì cả, chỉ tính theo số liệu tiền mình đã vay rồi, thì dư nợ tính theo VND của mình cũng đã tăng thêm mấy phần trăm nữa so với GDP.
Nếu không có vấn đề tỷ giá, tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP năm 2010 sẽ tăng chậm hơn trong năm 2010, có thể dưới 40%.
Vay ODA không ảnh hưởng nhiều đến ngoại hối
Về hiệu quả vay, xin hỏi ông, trong một số giai đoạn thị trường ngoại hối xuất hiện tình trạng căng thẳng như cuối năm 2010, đầu năm 2011 chẳng hạn, các khoản vay nước ngoài có giúp can thiệp hạ nhiệt thị trường này không?
Chuyện vay ODA hay vay của các nhà tài trợ là theo cam kết, từ khâu cam kết đến triển khai dự án, đến giải ngân… Đại đa số ODA tài trợ theo dạng dự án, mà dự án giải ngân không phải bằng tiền mặt cho Việt Nam. Ví dụ như nhà thầu nước ngoài vào đây thực hiện công trình, xong nhà tài trợ thanh toán tiền công trình cho nhà thầu đó, hoặc dùng để mua sắm thiết bị từ bên ngoài… tất cả dòng tiền đó ở ngoài Việt Nam, cho nên không thể can thiệp vào thị trường ngoại hối.
Chỉ có một số khoản vay hỗ trợ cán cân thanh toán, như những khoản vay hỗ trợ ngân sách thì giải ngân ngay bằng tiền mặt. Với mỗi khoản vay như thế khi vay về có thể bổ sung cho dự trữ ngoại hối của chúng ta. Nhưng rất tiếc là những khoản như thế không nhiều so với tổng vay.
Vay thương mại cũng thế, kể cả phát hành trái phiếu nhiều khi cũng đưa vào công trình hết. Chẳng hạn vay thương mại để thực hiện dự án thì cũng là mua thiết bị và thanh toán ra bên ngoài. Nhập thiết bị về thì phải trả tiền ra nên không làm tăng được dự trữ ngoại hối.
Năm 2010, Việt Nam phát hành 1 tỷ USD trái phiếu ngoại tệ thì ví dụ đã dùng 700 triệu USD chuyển cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam để đầu tư cho nhà máy lọc dầu Dung Quất, thì cũng phải trả tiền để nhập thiết bị về.
Như ông nói, vay ODA cũng có những điểm hạn chế?
Vay ODA là những khoản vay có ràng buộc. Tức là anh phải mua thiết bị của người ta, dùng nhà thầu của người ta, theo quy định của người ta. Rất nhiều ràng buộc. Chưa kể có những khoản bao gồm cả cam kết chính sách.
Hơn nữa, khi mình vay về, nhà tài trợ chỉ cho mình sử dụng trong lĩnh vực này thôi, anh không được sử dụng sang lĩnh vực khác. Cho nên, đi theo những ràng buộc ấy, ODA hiện giờ chủ yếu đi vào hạ tầng cơ sở, không có khả năng hoàn vốn trực tiếp.
Tất nhiên là có một số khoản vay về cho vay lại nhưng cái chính vẫn là ODA cho các dự án không có khả năng hoàn vốn trực tiếp. Cho nên, cũng có ý kiến là vay ODA nhiều chưa chắc đã tốt ở giác độ mình phải phụ thuộc vào nhà tài trợ, hai là tập trung vào hạ tầng cũng tốt nhưng tạo gánh nặng cho ngân sách vì không có khoản thu trực tiếp từ dự án đó.
Còn đối với vay thương mại, thường anh không bị ràng buộc, có thể mua thiết bị chỗ này mà không mua chỗ kia, tổ chức đấu thầu và không bị ép giá... Hai là khi vay thương mại được dùng cho dự án thương mại. Nếu anh tính toán tốt, bản thân dự án có hiệu quả thì anh thu được tiền về, trả được nợ. Ở giác độ đó nó tốt hơn.
Tăng mức trả nợ cũng sẽ không có áp lực
Hiểu một cách đơn giản nhất thì việc trả nợ nước ngoài có thể đánh giá như thế nào?
Về tổng thể, cho đến lúc này mà nói, thứ nhất là chúng ta vay chưa vượt ngưỡng an toàn. Thứ hai là Chính phủ Việt Nam còn chưa có vi phạm nào trong vấn đề trả nợ, chúng ta trả nợ bình thường và có khả năng trả nợ bình thường trong nhiều năm tới.
Với giới hạn nợ như thế này, hơn nữa chúng ta vay dài hạn và lãi suất chúng ta trả cũng khá thấp so với lãi suất thị trường, cho nên cân đối trả nợ so với thu ngân sách, so với quy mô nền kinh tế quốc dân trong các năm tới vẫn trong ngưỡng an toàn.
Có thể một số khoản nợ nước ngoài của doanh nghiệp thì trả nợ có khó khăn. Nhưng chủ yếu đó là các khoản tự vay tự trả và doanh nghiệp sẽ phải tự xử lý theo quy định của luật pháp trong nước và quốc tế.
Thế còn trong tương lai chúng ta vẫn có kế hoạch vay và trả bình thường. Chuyện vay để phát triển kinh tế ở trên thế giới này là chuyện bình thường, diễn ra hàng ngày.
Có một điểm đáng quan tâm là mức trả nợ gốc, lãi và phí cũng tăng rất mạnh, đỉnh điểm vào năm 2020 dự kiến khoảng 2,4 tỷ USD. Ông có nghĩ gánh nặng cho ngân sách sẽ tăng lên theo nghĩa vụ nợ?
Cái này thì phải nhìn vào con số tương đối. Ví dụ năm nay chúng ta trả nợ 1,5 tỷ USD tương đương với 15% thu ngân sách chẳng hạn. Năm sau chúng ta trả nợ 2 tỷ USD cũng tương đương 15% thu ngân sách…
Tức là khi quy mô nền kinh tế chúng ta lớn thêm, thu ngân sách chúng ta to lên thì việc tăng mức trả nợ sẽ không có áp lực hay vấn đề gì cả.
Giám sát nợ là việc của nhiều cơ quan
Theo quy định hiện nay, Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại có trách nhiệm đối với việc giám sát nợ nước ngoài. Nếu các giới hạn an toàn nợ bị phá vỡ trách nhiệm của Cục sẽ đến đâu, hay đảm bảo được an toàn thì được thưởng gì?
Về quản lý nợ công, vấn đề giám sát tầm vĩ mô, các chỉ số cân đối với nền kinh tế là trách nhiệm của Bộ Tài chính mà Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại có trách nhiệm giúp Bộ giám sát việc này. Để làm được, chúng tôi phải nắm được số liệu chính xác, hàng năm có rà soát lại để so với ngưỡng an toàn đã quy định mà có cảnh báo. Chứ không phải đi đến từng dự án giám sát xem triển khai dự án có hiệu quả không.
Để quản lý nợ thì không phải chỉ Cục chúng tôi mà cũng không chỉ là Bộ Tài chính mà vấn đề này là cả quá trình vay để làm gì, vay từ đâu, vay bao nhiêu…với sự tham gia của nhiêu các cơ quan khác của Chính phủ.
Ví dụ như vay làm một công trình thì công trình đó ai quyết định. Đầu tiên phải có người làm dự án rồi đề xuất lên UBND tỉnh hoặc lên bộ ngành chủ quản duyệt, có cái lên Thủ tướng, có cái lên Quốc hội duyệt chủ trương đầu tư rồi mới đến triển khai đi vay. Đi vay về thì khi thực hiện ai là người giám sát sử dụng vốn, ai làm duyệt chi, thanh tra, kiểm tra… nó là cả một hệ thống kiểm tra và giám sát.
Đối với việc giám sát vĩ mô chung thì năm nào chúng tôi cũng có báo cáo Thủ tướng và có cảnh báo về tình trạng nợ của quốc gia. Ví dự như hiện chỉ tiêu về dự trữ ngoại hối so với dư nợ ngắn hạn của chúng ta hơi thấp thì chúng tôi cũng có cảnh báo như thế để Chính phủ có giải pháp tăng dự trữ ngoại hối. Hay là khuyến cáo trong thời gian tới nên hạn chế vay ngắn hạn của doanh nghiệp…
Chứ bây giờ, nếu các chỉ tiêu giám sát nợ quá ngưỡng an toàn mà bảo chúng tôi phải chịu trách nhiệm về mặt nào đó, hay là điều khiển được các chỉ số đó nằm trong ngưỡng an toàn được thưởng cái gì đó thì không có. Nó không phải những trách nhiệm đấy.
Như ông nói về vấn đề cần minh bạch thông tin ra quốc tế. Vậy những số liệu này các tổ chức quốc tế có sử dụng không?
Chắc chắn họ có sử dụng. Đây là một trong những dữ liệu để họ tham khảo. Nhưng, họ cũng có những số liệu riêng.
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Tại nghị trường Quốc hội tháng 11/2010, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc đã khiến cả hội trường “nín thở”, khi ông nói về chuyện mình và một bộ trưởng khác đã bị biến thành... “đười ươi giữ ống” ra sao!
“Cần tính tới khả năng, nếu không để lãi suất giảm chút ít để doanh nghiệp đầu tư trở lại, thì rất có thể chúng ta sẽ rơi vào tình cảnh vừa đình đốn, vừa lạm phát”.
Theo Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam, nếu chỉ trông vào lương, người nghèo đừng nghĩ đến nhà thu nhập thấp, vì "lương cỡ Bộ trưởng cũng phải 40 năm mới đủ tiền mua".
Việc dự án nhà thu nhập thấp (TNT) Kiến Hưng vừa chính thức được một ngân hàng thương mại cho vay được xem là động thái tích cực cho việc nới lỏng tín dụng. Nhưng điều đó cũng thể hiện những hạn chế trong việc tiếp cận vốn ưu đãi.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.