Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Đình Tiến - Ảnh: Từ Nguyên.
Dù thế giới đang đánh giá, xem xét lại các tiêu chuẩn an toàn của điện hạt nhân, song nhìn chung vẫn xem điện hạt nhân như gà đẻ trứng vàng.
So sánh trên được Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Đình Tiến đưa ra khi nói về kế hoạch phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam, đặc biệt là sau sự cố thảm họa hạt nhân tại Nhật Bản vừa qua do ảnh hưởng của động đất, sóng thần.
Theo ông Tiến, cho dù không ít quốc gia trên thế giới đang có thái độ thận trọng hơn trong việc phát triển điện hạt nhân sau sự cố của Nhật Bản hồi tháng 4 vừa qua, song đánh giá chung, điện hạt nhân vẫn là nguồn năng lượng tất yếu và hiệu quả nhất trong tương lai.
Trao đổi với VnEconomy, ông Tiến nói:
- Sau sự cố điện hạt nhân tại Nhật Bản, Việt Nam vẫn giữ nguyên kế hoạch phát triển, xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận vào năm 2014. Hiện chúng ta đang đàm phán với Nga và Nhật Bản để chuẩn bị ký kết hợp đồng lựa chọn đối tác xây dựng FS (báo cáo nghiên cứu khả thi). Kế hoạch là làm sao đảm bảo đúng tiến độ và đảm bảo an toàn cao nhất.
Tuy nhiên, vì là nhà máy đầu tiên nên với Việt Nam cái gì cũng mới, cái gì cũng thách thức, từ đào tạo nhân lực, xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở pháp lý về an toàn, vận hành...
Dự kiến sau khi ký xong FS, tức là có thiết kế cụ thể nhà máy thì sẽ tính toán tổng kinh phí xây dựng hai nhà máy trên.
An toàn cao thì chi phí tăng
Nhưng sau sự cố điện hạt nhân của Nhật Bản, chúng ta có tổ chức đánh giá lại kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân không, đặc biệt là việc lựa chọn công nghệ để đảm bảo an toàn nhất?
Sau sự cố đó, cộng đồng quốc tế cũng như Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) có tổ chức hội nghị cấp bộ trưởng về an toàn điện hạt nhân vào tháng 6 vừa qua tại Áo.
Tại đây họ quyết định nâng cấp tiêu chuẩn an toàn để làm sao đảm bảo cho cả lò đang hoạt động cũng như đối với các nhà máy xây dựng mới.
Nhưng có chuyên gia cho rằng, nếu chọn công nghệ cao nhất thì đòi hỏi chi phí phải lớn hơn nhiều. Như vậy thì liệu bài toán về hiệu quả kinh tế có được đảm bảo, thưa ông?
Đấy chỉ là một vài ý kiến thôi chứ hiệu quả thì nó phải so sánh toàn diện. Ví dụ không chỉ là điện hạt nhân mà tất cả các lĩnh vực khác cũng vậy, nếu công nghệ thấp thì chi phí vận hành sẽ cao, chi phí bảo dưỡng tốn kém, trong khi độ an toàn thấp. Còn công nghệ cao thì hoạt động bền vững, an toàn. Hiệu quả chính là chỗ ấy.
Còn hiện nay chúng ta vẫn chưa quyết định lựa chọn của quốc gia nào và chi phí bao nhiêu.
Sự cố điện hạt nhân của Nhật Bản vừa qua khiến nhiều nước thay đổi chiến lược về phát triển điện hạt nhân, thậm chí như Đức đã tính tới dừng hoàn toàn điện hạt nhân, còn chúng ta thì sao, thưa Thứ trưởng?
Đấy là cả một chiến lược lâu dài của họ cho nên mình cũng chỉ biết vậy. Nhưng thực tế thì nhiều nước vẫn sử dụng điện hạt nhân vì đấy là phương án khả thi để đảm bảo an ninh năng lượng của các quốc gia.
Hiện ở Việt Nam, nguồn cung điện vẫn đang căng thẳng, thiếu điện vẫn diễn ra thường xuyên. Còn nếu nhìn rộng ra, trong tương lai nếu thiếu điện thì chắc chắn nền kinh tế sẽ không phát triển được.
Theo quy hoạch điện 7 và quy hoạch điện hạt nhân thì chúng ta phấn đấu điện hạt nhân chiếm 4,5% vào năm 2020. Tất nhiên trong quá trình phát triển thì mình cũng có điều chỉnh.
Hiện theo quy hoạch hai nhà máy này thì mỗi nhà máy có hai tổ máy, mỗi tổ máy có công suất khoảng 1.000 MW, như vậy mới có tổng cộng 4.000 MW.
Sẽ nâng tiêu chuẩn an toàn
Vậy trong các hợp đồng FS sắp ký, chúng ta có nâng các điều kiện, yêu cầu về mặt kỹ thuật đối với các chuyên gia, nhà tư vấn sau sự cố Nhật Bản?
Có chứ, nhất là các tiêu chuẩn thiết kế an toàn phải nâng cao hơn ví dụ tiêu chuẩn an toàn trước đây dự phòng cho an toàn không cao, thì giờ đây theo khuyến cáo nhiều nước phải nâng cao độ dự trữ an toàn cho thiết kế.
Chẳng hạn như an toàn đối với động đất. Chẳng hạn, khảo sát thì ở Việt Nam khu vực này chỉ động đất 7 độ richter, chúng ta để mức dự trữ 8 thôi, nhưng các nước khuyến cáo mình phải đưa lên cao hơn nữa là 9 độ richter.
Hiện đang có khá nhiều chuyên gia về điện hạt nhân đến Việt Nam, có chuyên gia nào khuyên chúng ta không nên phát triển điện hạt nhân?
Tôi chưa gặp chuyên gia nào khuyên như thế cả.
Theo các chuyên gia, chi phí để xây dựng một nhà máy điện hạt nhân là không hề nhỏ, trong khi theo quy hoạch điện 7, trong vòng 10 - 20 năm tới, điện hạt nhân cũng chỉ chiếm khoảng vài %. Vậy xét trên góc độ kinh tế, điện hạt nhân có thực sự hiệu quả?
Điện hạt nhân khác với các nguồn điện khác ở chỗ vòng đời một nhà máy điện hạt nhân khoảng 60 năm, thậm chí có thể kéo dài hơn, trong khi thời gian khấu hao thường chỉ 20 năm. Hết khấu hao còn đến 40 năm, khi đó điện hạt nhân trở nên rẻ hơn hết. Trong khi nhiệt điện chỉ 20-30 năm nên giá thành cao hơn nhiều so với điện hạt nhân.
Thứ hai nữa là với điện hạt nhân, khi người ta đầu tư ban đầu như vậy nhưng nhiêu liệu sử dụng sau này thường chiếm tỷ trọng thấp, theo tính toán sau này chỉ tối đa 15% khi hết thời gian khấu hao. Vì thế mà trên thế giới người ta ví điện hạt nhân như gà đẻ trứng vàng, bởi chi phí ít mà lợi nhuận cao.
Nhưng có ý kiến cho rằng, các nhà lập quy hoạch cho rằng điện hạt nhân có hiệu quả kinh tế cao bởi khi lập kế hoạch xây dựng nhà máy, họ chưa tính đến chi phí xử lý chất thải sau này, trong khi đây là một khoản không hề nhỏ?
Đúng đây cũng là một vấn đề khá quan trọng trong phát triển điện hạt nhân. Tuy nhiên, do nguyên liệu trong các nhà máy điện hạt nhân khi cháy chỉ cháy một phần, không cháy hết nên người ta có thể xử lý lại.
Hiện một số nước như Pháp, Nhật, Nga... thì họ đang áp dụng tái xử lý chất thải để sau này làm nguồn nhiên liệu cho điện hạt nhân. Người ta tính đây có thể là nguồn cung cấp cho hàng ngàn năm sau, trong khi quặng urani theo tính toán thì cũng chỉ dùng được khoảng 70 năm nữa.
Tuy nhiên, một chi phí khác nữa cũng khá quan trọng là khi nhà máy ngừng hoạt động thì phải có chi phí tháo dỡ. Để đảm bảo an toàn thì cái đó cũng cần chi phí lớn. Ở một số nước trong quá trình khai thác người ta trích kinh phí từ sản lượng điện để xây dựng quỹ, để sau này giúp cho tháo dỡ.
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
“Cần tính tới khả năng, nếu không để lãi suất giảm chút ít để doanh nghiệp đầu tư trở lại, thì rất có thể chúng ta sẽ rơi vào tình cảnh vừa đình đốn, vừa lạm phát”.
Theo Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam, nếu chỉ trông vào lương, người nghèo đừng nghĩ đến nhà thu nhập thấp, vì "lương cỡ Bộ trưởng cũng phải 40 năm mới đủ tiền mua".
Việc dự án nhà thu nhập thấp (TNT) Kiến Hưng vừa chính thức được một ngân hàng thương mại cho vay được xem là động thái tích cực cho việc nới lỏng tín dụng. Nhưng điều đó cũng thể hiện những hạn chế trong việc tiếp cận vốn ưu đãi.
Nhà nước không có nhiệm vụ duy trì mặt bằng lãi suất bất hợp lý vì lợi ích cục bộ của một bộ phận ngân hàng quá tham lam và yếu kém, chuyên gia Bùi Kiến Thành cho biết.
Nhập siêu cao có một phần do tâm lý chuộng hàng ngoại, là nước thu nhập thấp nhưng ôtô sang nhất, điện thoại sang nhất ở Việt Nam đều có cả, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng phát biểu trước Quốc hội, tại phiên thảo luận về kinh tế, xã hội sáng 6/8.
“Có quy hoạch rồi, nhưng vấn đề tổ chức thực hiện quy hoạch như thế nào mới là chuyện lớn”, nguyên Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Hồ Nghĩa Dũng chia sẻ tâm tư về đồ án quy hoạch chung Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, vừa được Thủ tướng phê duyệt.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.