Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Siemens AG, ông Peter Löscher. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Siemens AG, ông Peter Löscher, khẳng định tất cả các thành phố trên thế giới đều hưởng lợi từ Chỉ số thành phố xanh và chỉ số này giúp các thành phố học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Vietnam+ xin giới thiệu bài phỏng vấn riêng ông Peter Löscher tiếp sau việc công bố Chỉ số thành phố xanh châu Á gần đây với những đề xuất của ông cho các thành phố như Hà Nội để cải thiện các vấn đề môi trường.
- Xin ông cho biết sáng kiến “Chỉ số thành phố xanh” được đưa ra trong bối cảnh nào?
Ông Peter Löscher: Các đô thị tiêu thụ khoảng 75% nguồn năng lượng toàn cầu và thải ra 80% lượng khí CO2. Do đó cuộc chiến chống biến đổi khí hậu phải được thực hiện tại các thành phố. Chúng tôi mong muốn giúp các thành phố trên thế giới, như Hà Nội, có thể kết hợp tăng trưởng lành mạnh với việc nâng cao chất lượng cuộc sống. Đó là lý do tại sao chúng tôi đưa ra sáng kiến Chỉ số thành phố xanh. Nghiên cứu này cung cấp thông tin về các giải pháp môi trường và công nghệ hiệu quả để giúp các thành phố, đồng thời đưa ra những hồ sơ chi tiết về những thách thức, điểm mạnh, yếu của mỗi thành phố và nêu bật những ý tưởng sáng tạo và thiết thực nhất mà các thành phố khác có thể học tập.
- Mặc dù đạt tăng trưởng cao nhưng lâu nay châu Á phải vật lộn đối phó với các vấn đề môi trường, vậy mà Chỉ số thành phố xanh châu Á lại được đưa ra khá muộn. Xin ông cho biết tại sao chỉ số cho châu Á lại được công bố sau châu Âu và Mỹ Latinh? Việc thực hiện dự án này ở châu Á có gặp khó khăn gì không?
Ông Peter Löscher: Châu Á là khu vực thứ 3 mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu, tiếp sau châu Âu và khu vực Mỹ Latinh nhưng không phải là khu vực cuối cùng. Còn nhiều khu vực khác tiếp theo, như Bắc Mỹ và châu Phi. Nhưng việc thực hiện nghiên cứu đầu tiên hay cuối cùng không phải là vấn đề mà điều cần quan tâm là việc đã thực hiện nghiên cứu đó. Vì dự án đưa ra những chiến lược thành công cho việc phát triển đô thị bền vững và hình thành nền tảng khách quan để các nhà hoạch định kế hoạch đô thị trong các khu vực trao đổi ý tưởng.
Các thành phố phải là nơi đáng để cho mọi người sinh sống lâu dài. Và điều này càng phù hợp với khu vực châu Á, trong bối cảnh bùng nổ các khu đô thị nhiều hơn bất kỳ nơi nào trên trái đất. Chỉ trong vòng 5 năm trở lại đây, số lượng dân cư ở các thành phố châu Á đã tăng khoảng 100.000 người một ngày. Điều này có tác động rất lớn đến cơ sở hạ tầng: số dân tăng thêm đó đòi hỏi nhiều năng lượng hơn, nước sạch nhiều hơn, rồi cần nâng cấp giao thông và những ngôi nhà tiết kiệm năng lượng. Và đối với Siemens với tư cách là công ty đi tiên phong về cơ sở hạ tầng xanh thì điều này mang lại tiềm năng lớn.
- Một chuyên gia thuộc cơ quan nghiên cứu EIU của tạp chí Economist có nói trong cuộc họp báo công bố Chỉ số thành phố xanh châu Á rằng chỉ số này không nhằm mục đích xếp hạng các thành phố về mức độ thân thiện môi trường nhưng sẽ giúp các thành phố này biết họ cần làm tốt hơn ở mặt nào. Ông có nghĩ chính quyền các thành phố sẽ lưu tâm đến vấn đề này không? Và nếu có, những nhà tiên phong về công nghệ xanh như Siemens sẽ giúp đỡ họ thế nào? Ông Peter Löscher: Theo kinh nghiệm của chúng tôi thì có thể khẳng định rằng Chỉ số thành phố xanh châu Âu và Mỹ Latinh đã giúp các thành phố học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Các thành phố đã hiểu rõ hơn về mặt mạnh và yếu của mình về các vấn đề liên quan đến các vấn đề bền vững đô thị. Và chúng tôi cam kết sẽ hỗ trợ thông tin đầy đủ về bảo vệ khí hậu có hiệu quả, và là đối tác trong việc phát triển các giải pháp hạ tầng toàn diện và bền vững.
Siemens thu được nhiều kinh nghiệm từ việc thực hiện dự án tại các thành phố trên thế giới và có kinh nghiệm về nhiều công nghệ sạch - từ sản xuất, truyền tải và sử dụng năng lượng sạch cho đến vận tải công cộng, hệ thống xử lý nước hay các công nghệ xây dựng.
Chỉ riêng trong năm tài khóa 2010, doanh thu của Siemens từ các dự án liên quan đến môi trường lên đến 28 tỷ euro. Các dự án ở Việt Nam cũng góp phần vào nguồn thu đó. - Rõ ràng là thành phố Hà Nội còn rất nhiều việc phải làm để trở thành thành phố xanh, không chỉ vì mục tiêu được xếp hạng cao hơn. Quản lý môi trường ở Hà Nội chỉ ở mức dưới trung bình trong Chỉ số thành phố xanh châu Á, cũng như tiêu chí “sử dụng đất và các tòa nhà” và “vệ sinh.” Giao thông thông và nước cũng là hai vấn đề đáng quan tâm. Vậy ông có đề xuất giải pháp gì cho thành phố trong thời gian tới? Ông Peter Löscher: Mỗi một giải pháp đóng góp vào sự phát triển đô thị bền vững đều có tầm quan trọng. Chỉ số thành phố xanh châu Á có thể được coi là cơ sở cho các bước tiếp theo. Nghiên cứu này đã đưa ra một bức tranh toàn cảnh về vấn đề môi trường ở Hà Nội.
Theo kết quả nghiên cứu, thành phố bị thất thoát 45% nguồn nước cung cấp do rò rỉ đường ống, nên giải pháp trước mắt là nâng cấp hệ thống nước hiện tại và nâng cao nhận thức của người dân về tiết kiệm nước.
Thêm vào đó, hệ thống giao thông công cộng như tàu điện ngầm, xe buýt nhanh hay xe điện sẽ mang lại lợi ích cho cả người dân và môi trường. Và Việt Nam không cần phải bắt đầu từ con số không. Việt Nam đã có những sáng kiến xanh rất tốt như chương trình bảo toàn năng lượng và chương trình quốc gia về hiệu quả năng lượng. Thúc đẩy rộng rãi các chương trình và có hành động cụ thể là chìa khóa cho một Hà Nội xanh và thuận lợi cho cuộc sống của người dân.
- Được biết chỉ số này sẽ được công bố khoảng 2-3 năm một lần. Đối với các thành phố trong danh sách, điều này là dễ hiểu vì họ có thời gian để cải thiện tình hình. Nhưng đối với những thành phố không có trong danh sách thì sao? Ông có nghĩ chỉ số này có ảnh hưởng đến các thành phố đó?
- Ông Peter Löscher: Đúng vậy. Tất cả các thành phố đều hưởng lợi từ kết quả này. Như tôi đã nói ở trên, Chỉ số thành phố xanh cung cấp hồ sơ chi tiết về những thách thức, thế mạnh và điểm yếu của mỗi thành phố và cũng nêu bật những ý tưởng sáng tạo và cách triển khai tốt nhất của mỗi thành phố mà các thành phố khác có thể học tập.
Tôi xin lấy một ví dụ: thường thì mọi người không nghĩ đến các tòa nhà, nhưng thực tế đáng ngạc nhiên là công trình xây dựng nhà lại chiếm 40% mức tiêu thụ năng lượng toàn cầu. Siemens đã chứng minh được rằng áp dụng công nghệ xây dựng thông minh có thể tiết kiệm được 30% năng lượng tiêu thụ. Minh chứng cho điều này là trung tâm Siemens ở Bắc Kinh, Trung Quốc. Và các tòa nhà ở Việt Nam cũng có thể theo cách đó.
- Tại buổi thảo luận sau cuộc họp báo tại Singapore có một gợi ý rằng các thành phố giàu nên giúp đỡ các thành phố nghèo hơn trong vấn đề môi trường. Ông có nghĩ rằng điều này có thể thực hiện được và liệu có gặp khó khăn gì trong quá trình thực hiện không?
- Ông Peter Löscher: Khi nghiên cứu Chỉ số thành phố xanh châu Á, chúng tôi đã phát hiện những ví dụ thú vị liên quan đến việc các thành phố giàu hỗ trợ tài chính và chuyên môn cho các thành phố nghèo hơn. Ví dụ như ở Nhật Bản, Cục Thủy lợi Yokohama nhận thấy họ đã được hưởng lợi nhiều từ sự trợ giúp kỹ thuật từ một kỹ sư người Anh ở thế kỷ trước và bắt đầu mời chuyên gia từ các thành phố đang phát triển trên thế giới tham gia các chương trình đào tạo.
Siemens cũng rất chủ động trong lĩnh vực này. Năm 2009, chúng tôi thành lập một ban gồm các chuyên gia từ các đơn vị liên quan và các phòng chức năng để cùng đánh giá yêu cầu về hạ tầng cơ sở của các thành phố và phát triển giải pháp riêng cho khách hàng.
Ngoài ra, trong những tháng gần đây, chúng tôi đã xây dựng mội đột ngũ hùng hậu gồm 50 chuyên viên để thống nhất đầu mối cung cấp dịch vụ cho các thành phố như Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh. Cuối cùng nhưng cũng không kém phần quan trọng là Siemens cũng có các giải pháp tài chính cho những thành phố muốn đầu tư vào các công nghệ tiết kiệm năng lượng nhưng gặp hạn chế về ngân sách: chúng tôi gọi là thầu hiệu quả năng lượng.
Mô hình này rất đơn giản. Chúng tôi cung cấp cho khách hàng công nghệ tiết kiệm năng lượng và họ có thể chi trả cho công nghệ này từ số tiền tiết kiệm do cắt giảm tiêu thụ năng lượng. Do đó sẽ không có đầu tư bổ sung cho khách hàng. Mô hình này đã rất thành công trên thế giới.
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Tổng số tiền người lao động phải bỏ ra khi đi làm việc tại Lybia chỉ vài ba chục triệu, không có chuyện lên đến hàng trăm triệu đồng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Kim Ngân khẳng định.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu than thở “làm không kịp thở” trong mấy ngày qua, song ông tin tưởng tâm lý người dân và doanh nghiệp đã bớt lo lắng hơn.
Trả lời phỏng vấn, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Văn Lạng cho rằng nếu có một môi trường tốt hơn, các doanh nghiệp công nghệ chính là nền tảng và động lực cho ngành dịch vụ phát triển.
Trong mấy ngày qua dư luận xôn xao về việc Ngân hàng Nhà nước đang xây dựng dự thảo để trình Chính phủ, trong đó có cụm từ “tiến tới sẽ xóa bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do”, ngày 1/3, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có cuộc trao đổi với báo chí xung quanh vấn đề này.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Mạnh Hiển cho rằng, giá đất tăng lên chủ yếu do Nhà nước chuyển đổi mục đích sử dụng, đầu tư cơ sở hạ tầng. Do đó, lẽ ra Nhà nước phải được hưởng lợi.
"Chất lượng các dự án giao thông có được cải thiện, nhưng đâu đó vẫn có hiện tượng xuống cấp như báo chí phản ánh. Song tôi khẳng định điều này không phải do thiếu vốn", Bộ trưởng Giao thông Vận tải Hồ Nghĩa Dũng trao đổi chiều 14/3.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.