Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Tháo ngòi nổ" để giảm lãi suất

Giảm lãi suất (LS) đang là vấn đề nóng, thu hút sự tham gia của các chuyên gia, nhà quản lý, sự chờ đợi của doanh nghiệp.

Từ một góc nhìn riêng, tiến sĩ Lê Thẩm Dương (ảnh,) Trưởng khoa Quản trị Kinh doanh, trường Đại học Ngân hàng TP.HCM khẳng định: muốn giảm LS, không thể "đánh trực diện" vào LS. Trong bối cảnh hiện nay, ngoài các giải pháp căn cơ, cần sử dụng các giải pháp hành chính mới có thể đạt hiệu quả.

Đã có quá nhiều ý kiến hiến kế giảm LS, từ việc chặn đầu ra (áp dụng trần lãi vay) cho đến dùng "kháng sinh liều cao" là nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc... khiến người ta có cảm giác, chúng ta đang rối lên trong việc tìm lời giải cho bài toán hạ LS, vì sao vậy thưa ông?

Nguyên nhân lớn nhất của việc LS cao là do lạm phát. Chống lạm phát thì buộc phải theo một triết lý "muốn nhanh thì phải từ từ". Chúng ta đã chịu được 5 tháng nay rồi. Tháng 5 này tốc độ tăng CPI chắc chắn sẽ giảm xuống do các giải pháp Chính phủ triển khai bắt đầu có tác dụng thì chúng ta lại cuống lên, đưa ra hàng loạt các phương án. Nếu không thận trọng, có thể làm rối thêm tình hình.

Phương án bỏ trần huy động, áp dụng trần lãi vay nhiều khả năng sẽ được chọn làm giải pháp để giảm LS, ông đánh giá thế nào về tính khả thi của phương án này?

Tôi khẳng định, nếu khống chế đầu ra (trần lãi vay) thì đầu vào (huy động) kể cả áp trần hay để tự do cũng sẽ giảm xuống. LS đầu vào giảm, không ai gửi tiền vì LS hiện lên tới 19% mà huy động tháng 4 vừa qua vẫn giảm. Đó là chưa kể, nếu sử dụng trần LS cho vay còn dẫn tới nhiều hậu quả. Các ngân hàng (NH) sẽ giảm quyết liệt vay trung và dài hạn bởi LS như nhau, cho vay ngắn hạn "ăn" hơn nhiều và cũng ít rủi ro hơn; NH chắc chắn sẽ hạn chế cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) vì khối này rủi ro cũng cao hơn so với các doanh nghiệp lớn. Như vậy, việc mất cân đối càng thêm nghiêm trọng, áp lực càng căng.

Bên cạnh đó, nếu khống chế đầu ra, hiện tượng lách LS sẽ xảy ra y như năm 2008. NH sẽ "đẻ" ra hàng loạt các loại phí, hàng loạt các chiêu "lách" LS. Áp dụng trần huy động như hiện nay, đầu ra các doanh nghiệp có thể phải vay đến 25%. Nhưng nếu chặn đầu ra, thả cửa đầu vào thì không có gì bảo đảm sẽ không có cuộc chạy đua LS huy động. Khi đó, lãi vay không chỉ là 25% như hiện nay mà sẽ cao hơn rất nhiều. Khối DNVVN càng không thể tiếp cận được vốn.

Vậy theo ông, để giảm lãi suất chúng ta phải làm gì?

Tôi cho rằng, trước khi bàn về vấn đề giảm LS, phải nhận diện đúng bối cảnh. Đành rằng lạm phát là nguyên nhân lớn nhất khiến LS cao nhưng "cuộc chiến" LS giữa các NH cũng chính là một trong những lý do quan trọng đẩy LS lên cao. NH nhỏ tăng LS vì bị lép vế, bị yếu thanh khoản, còn NH lớn viện cớ NH nhỏ tăng LS nên phải tăng theo để giữ khách. Nhưng ẩn sau đằng đó thì NH lớn vẫn có lợi thông qua việc cho NH nhỏ vay trên thị trường liên NH. Rất dễ thấy điều này vì các NH lớn huy động số lượng tiền rất lớn trong khi tín dụng năm nay bị đã bị khống chế 20% nên thực chất là để "luộc" lại mấy NH nhỏ. Khi NH nhỏ bị "luộc" 22% - 23% thì huy động trong dân chúng 19% như hiện nay không phải là cao. Như vậy, LS cao hiện nay là do "ngòi nổ" sinh ra từ cả các NH nhỏ và lớn. Tạo ra một vòng xoáy không có điểm dừng. Vì vậy, giải pháp tình thế cần làm hiện nay là tháo "ngòi nổ" từ chính các NH.

Cụ thể là tháo thế nào, thưa ông?

"Ngòi nổ" ở các NH nhỏ là sự thiếu thanh khoản còn ở các ngân hàng lớn là sự trục lợi. NH Nhà nước hoàn toàn có thể tiếp vốn cho NH nhỏ trên thị trường mở bằng các cơ chế, điều kiện dễ dàng hơn. Như vậy, NH nhỏ sẽ không bị các NH lớn trục lợi. Đối với các NH lớn, chỉ cần khống chế LS liên NH họ sẽ không còn cửa để trục lợi các NH nhỏ thông qua việc cho vay LS cao trên thị trường này. Cuộc đua LS sẽ hạ nhiều và LS sẽ giảm xuống.

Bài toán giảm LS của ông có vẻ đơn giản?

Không hề đơn giản. Đó chỉ là một trong những biện pháp tình thế cần phải làm. Để giảm LS, tôi cho rằng phải tiến hành song song 2 nhóm giải pháp. Giải pháp căn cơ và giải pháp hành chính. Giải pháp căn cơ là thực hiện đúng Nghị quyết 11, cắt giảm đầu tư công, chi tiêu công như chúng ta đã nói rất nhiều lần. Còn giải pháp tình thế, ngoài việc tháo ngòi nổ như tôi nói trên, chính sách tiền tệ còn phải làm thêm 2 việc nữa. Đó là quản trị về khối lượng tín dụng và cơ cấu tín dụng. Tại thời điểm này, chúng ta cần sử dụng biện pháp hành chính để "bắt" tín dụng "chảy" vào sản xuất, chảy vào khối DNVVN. Hiện khối DNVVN khó vay vốn nên có tâm lý giá nào cũng vay đã đẩy LS lên cao. Thêm một giải pháp nữa là "quản trị tuân thủ". Ở các nước đặt rất nặng vấn đề này. Vì vậy, phải tăng kỷ luật thị trường lên để thực hiện nghiêm những quy định đã đưa ra.

Giải pháp căn cơ và giải pháp tình thế phải được tiến hành đồng bộ thì mới mong kéo được LS xuống một cách từ từ và chắc chắn. Còn nếu chúng ta "đánh trực diện" vào LS thì không thể giải quyết tận gốc các vấn đề của thị trường như đã nói trên.

(Báo Thanh Niên)

  • Tín nhiệm thấp do “kinh tế khó khăn”
  • Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh và những kinh nghiệm đối ngoại
  • Nâng chỉ tiêu lạm phát để… cứu doanh nghiệp?
  • “Kết quả lấy phiếu tín nhiệm sẽ công khai”
  • Hai dự án bauxit-alumin: Nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm?
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi