Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hưng Yên, Quảng Ngãi và thành phố Hải Phòng thảo luận ở tổ. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)
Sáng 7/11, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 6, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ về chủ trương đầu tư dự án nhà máy thủy điện Lai Châu và đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.
Đảm bảo tốt công tác di dời, tái định cư
Đại biểu Trần Thị Quốc Khánh (Hà Nội) bày tỏ ý kiến tán thành cao đối với chủ trương xây dựng nhà máy thủy điện Lai Châu, nhằm đảm bảo nhu cầu năng lượng ngày càng bức thiết của xã hội. Việc xây dựng nhà máy thủy điện Lai Châu cũng là một cơ hội lớn cho sự phát triển của địa phương vốn là một tỉnh nghèo, đông bà con dân tộc.
Vì vậy, theo đại biểu, trong quá trình lập dự án và xây dựng nhà máy, Chính phủ cần có những có những biện pháp tích cực hơn nữa để đảm bảo và nâng cao đời sống của nhân dân địa phương.
Cùng chung ý kiến với đại biểu Trần Thị Quốc Khánh, đại biểu Nguyễn Đăng Kính (Hà Nội), Bùi Sĩ Lợi (Thanh Hóa) nhất trí với chủ trương xây dựng nhà máy thủy điện Lai Châu và quan tâm đến công tác di dời, tái định cư người dân khu vực xây dựng nhà máy.
Theo các đại biểu, việc giải tỏa, di dân, tái định cư là vấn đề phức tạp, liên quan đến đời sống của hàng ngàn người dân, vì thế cần phải đảm bảo nguyên tắc chỗ ở mới của người dân phải tốt hơn chỗ ở cũ và chất lượng cuộc sống phải được nâng cao hơn một bước.
Thực tế hiện nay cho thấy, công tác di dời, tái định cư cho đồng bào địa phương nơi xây dựng các nhà máy thủy điện hiện đang gặp một sô vấn đề tồn tại cần khắc phục như: việc đền bù chậm, đất ở, sản xuất nơi tái định cư thường là hẹp, chất lượng xấu hơn nơi cũ; đời sống phong tục, tập quán, nền văn hóa của người dân bị ảnh hưởng.
Chính vì vậy, Chính phủ cần tổng kết, đút rút kinh nghiệm từ công tác di dời, tái định cư khi xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình, Sơn La để đảm bảo sự phát triển bền vững cho nhân dân tại nơi ở mới.
Đại biểu Ngô Văn Minh (Quảng Nam), Nguyễn Tiến Quân (Quảng Nam ), Nguyễn Viết Thịnh (Hà Nội) đồng ý về sự cần thiết phải xây dựng nhà máy thủy điện Lai Châu nhưng Chính phủ cần có báo cáo cụ thể về phương án xả lũ, báo cáo ảnh hưởng việc xả lũ đối với vùng hạ lưu; tác động môi trường từ việc xây dựng các hồ chứa; xây dựng các phương án đảm bảo an toàn cho nhà máy trước các tác động bất lợi và rủi ro.
Đại biểu Trần Văn (Cà Mau), Bùi Sỹ Lợi (Hà Nội), Phạm Mạnh Hùng (Thái Nguyên) cho rằng, Chính phủ cần có báo cáo chi tiết, cụ thể hơn về vốn đầu tư xây dựng công trình và phương án huy động vốn trong dự án nhà máy thủy điện Lai Châu.
Việc xây dựng nhà máy đòi hỏi một nguồn vốn lớn, vì thế, Quốc hội và Chính phủ cần nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, hậu giám sát trong quá trình xây dựng nhà máy, để đảm bảo nguồn vốn được sử dụng đúng mục đích, không thất thoát.
Cơ bản nhất trí về chủ trương phát triển điện hạt nhân
Cùng chung quan điểm với một số đại biểu khác, đại biểu Nguyễn Tiến Quân, Nguyễn Văn Sỹ (Quảng Nam), Nguyễn Mạnh Hùng (Thái Nguyên), Bùi Sỹ Lợi (Thanh Hóa) nhất trí với Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội về sự cần thiết của việc phát triển điện hạt nhân nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng của đất nước, phù hợp với xu thế sử dụng năng lượng của thế giới.
Các đại biểu cho rằng, Chính phủ cần nghiên cứu biện pháp để việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân phải đảm bảo nguyên tắc an toàn cao, sử dụng công nghệ cao, lưa chọn đối tác có khả năng cung cấp công nghệ kỹ thuật tốt, rẻ, lâu dài.
Chính phủ cũng cần có kế hoạch chi tiết cho việc đào tạo nguồn nhân lực vận hành, sử dụng khi nhà máy đi vào hoạt động, vì thực tế cho thấy các sự cố xảy ra tại các nhà máy điện hạt nhân trên thế giới phần lớn do lỗi vận hành kỹ thuật.
Đại biểu Trần Văn (Cà Mau) nhất trí với chủ trương phát triển điện hạt nhân, nhưng cho rằng, trước mắt Chính phủ nên xem xét lại mức độ đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân theo hướng đầu tư dần 1-2 tổ máy để tránh áp lực về nguồn vốn và tận dụng được sự phát triển của khoa học công nghệ thế giới.
Phát biểu tại tổ Quảng Nam, Thanh Hóa, Thái Nguyên, ông Dương Quang Thành, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, nếu chủ trương xây dựng nhà máy điện hạt nhân được thông qua, EVN sẽ thực hiện việc xây dựng nhà máy theo giải pháp “chìa khóa trao tay,” đảm bảo lựa chọn nhà thầu có kinh nghiệm từ các quốc gia có công nghệ gốc về điện hạt nhân.
Cũng theo ông Thành, EVN sẽ phối hợp chặt chẽ với các địa phương vùng xây dựng các nhà máy điện để làm tốt hoạt động tái định cư cho người dân phải di dời theo đúng yêu cầu của Quốc hội./.
Khi dư âm của cuộc “bỏ phiếu kép” tại Quốc hội khóa 13 vừa qua chưa kịp lắng thì việc lấy phiếu tín nhiệm của các địa phương đã lại thành tâm điểm chú ý của dư luận ngay từ đầu tháng 7 nắng nóng này.
Sự ảm đạm của nền kinh tế khiến cho những hạn chế, bất cập của giáo dục, y tế càng bị khoét sâu hơn, đưa các lĩnh vực này “lên ngôi” về mức độ không hài lòng của người dân cũng như của đại biểu Quốc hội.
Với 91,37% đại biểu Quốc hội tán thành, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng đã được thông qua chiều 19/6 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2014, trừ quy định về một số ưu đãi thuế với nhà ở.
“Lãng phí vô tội vạ, có phải chăng do năng lực cán bộ, do dễ dãi thiếu trách nhiệm hay do lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm? Cần làm rõ nguyên nhân và trách nhiệm”, Ủy viên Thường trực Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội, bà Nguyễn Thị Khá nêu quan điểm.
Một trong những nội dung quan trọng nhất trong phần trả lời chất vấn của Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Quốc hội chính là về việc xử lý các sai phạm tại Vinashin và Vinalines.
Sáng 13/11, làm việc tại Hội trường thảo luận về chủ trương đầu tư dự án nhà máy thuỷ điện Lai Châu, các đại biểu Quốc hội đề nghị chính sách di dân tái định cư phải thực hiện trên nguyên tắc người dân phải có điều kiện sinh sống và sản xuất tốt hơn nơi ở cũ.
Chiều 9/11, dưới sự chủ trì của Phó Chủ tịch Nguyễn Đức Kiên, Quốc hội làm việc tại hội trường, thảo luận về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước.
Trong phiên thảo luận tổ chiều 11/11, đa số đại biểu Quốc hội cho rằng việc sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng là cần thiết nhằm khắc phục bất cập của những quy định hiện hành, tạo thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Sáng 16/11, thảo luận về dự án Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sửa đổi), nhiều đại biểu Quốc hội phát biểu tán thành với kiến nghị của Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ trình Quốc hội chỉ tiêu lạm phát hàng năm.
Sáng 17/11, phát biểu khai mạc phiên chất vấn và trả lời chất vấn, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng cho biết, tính đến chiều 16/11, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nhận được 254 chất vấn của 112 đại biểu Quốc hội của 43 đoàn gửi đến Thủ tướng, Phó Thủ tướng, 20 vị Bộ trưởng, trưởng ngành.
Quốc hội Khóa XII, kỳ họp thứ 6 vừa thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 với mục tiêu tổng quát phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế...
Mặc dù 74,4% đại biểu Quốc hội đồng ý với phương án bội chi ngân sách Nhà nước năm 2010 là 6% GDP qua phiếu xin ý kiến, song Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đề nghị Quốc hội chấp thuận mức bội chi không quá 6,2% GDP.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.