Năm 2008, ngành dệt may VN đang phấn đấu lọt vào top 10 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, với xuất phát điểm còn thấp, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, năng lực cạnh tranh còn hạn chế, lại đang chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các cường quốc sản xuất dệt may trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh… khiến cho ngành dệt may VN phải đối mặt và vượt qua nhiều thách thức.
Đặc biệt là hội nhập vào nền kinh tế thế giới, dệt may VN không những phải cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu mà ngay tại thị trường nội địa khi mở cửa, thuế nhập khẩu dệt may đã giảm xuống 2/3 (chỉ còn ở mức 5-20%).
Doanh nghiệp dệt may chưa lường hết những thách thức khi hội nhập
Sáng nay (18/11), tại hội thảo “Phát triển ngành dệt may VN sau hai năm gia nhập WTO và những giải pháp để tăng tốc” do Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại, Văn phòng Ủy ban quốc gia Hợp tác Kinh tế Quốc tế, và Công ty Thanh niên phối hợp tổ chức; Đại diện từ Hiệp hội dệt may VN đã đánh giá: Các doanh nghiệp chưa nhận thức hết những thách thức, áp lực cạnh tranh khi hội nhập, dẫn đến việc thiếu chuẩn bị, thiếu phương án đối phó khi sản xuất kinh doanh khó khăn và khi phải cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Đặc biệt, từ 1/1/2009, VN sẽ mở cửa thị trường bán lẻ cho các doanh nghiệp nước ngoài, sức ép cạnh tranh sẽ càng lớn hơn.
Bên cạnh đó, một vấn đề mới nổi lên với ngành dệt may là do đầu tư nước ngoài tăng nhanh tại TP. Hồ Chí Minh và các khu công nghiệp dẫn đến việc thiếu hụt nguồn lao động, nhất là lao động có kỹ năng tay nghề cao. Tại nhiều xí nghiệp may tại TP. Hồ Chí Minh, tỷ lệ lao động biến động lên tới 25-30%. Tình trạng chảy máu chất xám, “săn đầu người” diễn ra khá phổ biến và các doanh nghiệp đang rất lúng túng trong việc duy trì đội ngũ quản lý, kỹ thuật giỏi của mình.
Do kho khăn về đời sống và nhiều nguyên nhân khác, các cuộc đình công trong ngành dệt may, đặc biệt là tại các khu công nghiệp tập trung và các thành phố lớn liên tục xảy ra, gây đảo lộn kế hoạch sản xuất giao hàng của nhiều doanh nghiệp, tạo ra hình ảnh xấu đối với các nhà đầu tư kinh doanh thế giới. Theo các chuyên gia, đây là nguy cơ lớn nhất ảnh hưởng đến khả năng phát triển của ngành dệt may VN hiện nay.
Bên canh đó, khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp là cơ chế của Hoa Kỳ giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ VN và nguy cơ tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá. Mặc dù, Chính phủ, các Bộ ngành và Hiệp hội Dệt may VN đã kiên quyết đấu tranh chống lại cơ chế này và thường xuyên tiếp xúc, giải thích, vận động để các khách hàng Hoa Kỳ yên tâm đặt hàng tại VN nhưng một số công ty lớn như Macy, Hagel vẫn rút toàn bộ đơn hàng tại VN để chuyển sang nước khác. Sức ép này còn làm cho nhiều công ty VN, công ty nước ngoài không dám đầu tư vào ngành dệt may vì sợ rủi ro…Đến nay, mặc dù qua hai lần công bố kết quả giám sát vào thành 10/2007 và tháng 5/2008, phía Hoa Kỳ phải thừa nhận không tìm thấy bằng chứng về việc VN bán phá giá vào Hoa Kỳ nhưng do sức ép, có khả năng cơ chế này tiếp tục được phía Hoa Kỳ gia hạn thêm ít nhất một năm nữa, gây lo ngại cho các nhà nhập khẩu bán lẻ Hoa Kỳ cũng như các nhà sản xuất VN do rủi ro cao.
Một điểm yếu khác của ngành dệt may VN cũng được nhiều đại biểu đề cập đến là trong ngành có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng lực cạnh tranh hạn chế. Ngành công nghiệp phụ trợ kém phát triển, 70% nguyên phụ liệu trong ngành phải nhập khẩu từ nước ngoài dẫn đến giá trị gia tăng không cao, thiếu linh hoạt và hạn chế khả năng đáp ứng nhanh. May xuất khẩu phần nhiều vẫn theo phương thức gia công, thiết kế mẫu mốt chưa phát triển, nhiều doanh nghiệp chưa xây dựng được thương hiệu, hiệu quả sản xuất thấp.
Đâu là giải pháp phát triển vững chắc?
Theo các chuyên gia, trong những năm tới phát triển ngành dệt may phải đặt trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập quốc tế, tiếp nhận làn sóng chuyển dịch sản xuất từ các nước phát triển và công nghiệp mới. Các doanh nghiệp phải chú ý xây dựng và tăng cường mối liên kết hợp tác với các tập đoàn phân phối, bán lẻ trên thế giới, từng bước tham gia vào chuỗi liên kết của họ; Liên kết với các nhà sản xuất, cung ứng nguyên phụ liệu, liên kết tiêu thụ sản phẩm. Mục tiêu chung là phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Năm 2008, dự kiến kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may VN đạt 9,2-9,3 tỷ USD, đưa VN lọt vào top 10 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Đến năm 2010, dự kiến doanh thu toàn ngành đạt từ 13-15 tỷ USD, xuất khẩu đạt 10 – 12 tỷ USD, sử dụng 2,5 triệu lao động; Đến năm 2015, doanh thu dự kiến đạt 18-21 tỷ USD, xuất khẩu đạt 14-16 tỷ USD, sử dụng 3,5 triệu lao động.
Để có thể đạt được kết quả trên, ngành dệt may phải tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao về quản lý, kỹ thuật công nghệ, thiết kế thời trang…: Mở rộng hợp tác với nước ngoài, cải tiến phương pháp đào tạo; Xây dựng quan hệ hài hòa giữa người sử dụng lao động với người lao động; Có chính sách thỏa đáng bồi dưỡng và thu hút nhân tài làm việc cho các doanh nghiệp. Hiệp hội dệt may VN cũng khuyến nghị các doanh nghiệp tiếp tục di dời các cơ sở sản xuất may mặc về các thị tứ, vùng nông thôn nhằm giải quyết bài toán lao động, di dời các cơ sở sản xuất ô nhiễm vào các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải; xúc tiến kêu gọi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào sản xuất nguyên phụ liệu…
Ông Phạm Chí Dũng – Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nhẹ Bộ Công thương cho biết: Để hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may phát triển, nhà nước sẽ có chính sách tạo điều kiện cho ngành dệt may phát triển về nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển khoa học công nghệ (xây dựng phòng thí nghiệm, nghiên cứu..), xử lý nước thải, xúc tiến thị trường… Mặt khác, các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp, Hiệp hội dệt may VN, các nhà nhập khẩu, bán lẻ, các đối tác Hoa Kỳ trong thời gian tới sẽ tiếp tục đấu tranh chống lại cơ chế giám sát nhập khẩu và chống bán phá giá của Hoa Kỳ; giảm thiểu tác động của cơ chế này đối với ngành.
Thực tế, trong thời gian qua, theo phản ảnh của bà Nguyễn Thị Hồng Tín – Trưởng ban Nghiên cứu Xúc tiến Thị trường (Tập đoàn dệt may VN), do Bộ Thương mại Hoa Kỳ thực hiện cơ chế giám sát đối với hàng dệt may nhập khẩu từ VN, một số DN xuất khẩu VN đã “lùi lại” để tạo độ an toàn bằng việc thực hiện gia công thuần túy các đơn hàng. Đó là một bước thụt lùi đáng buồn đối với ngành dệt may VN. Theo bà Tín, để tránh thực trạng trên, các doanh nghiệp dệt may VN phải chủ động trong việc tìm kiếm các nguồn nguyên phụ liệu trong nước, giảm tỷ lệ hàng gia công, tăng dần sản xuất FOB khi nền kinh tế thế giới đi vào ổn định….
Ngành dệt may VN đang cần tiếp tục khẳng định vị trí của mình trên “bản đồ” các cường quốc xuất khẩu dệt may trên thế giới và cả thị trường nội địa bằng những bước đi vững chắc, hiệu quả hơn
Từ đầu năm đến nay, nhiều doanh nghiệp ngành dệt may, sản xuất xơ, sợi nước ngoài (doanh nghiệp FDI) tìm đến xây dựng nhà máy sản xuất ở Việt Nam với quy mô vốn đầu tư lớn.
Theo đánh giá của hãng tin AFP, ngành dệt may của Việt Nam có nhiều điểm đáng để Bangladesh học tập, nhất là sau vụ sập nhà máy may khiến hàng trăm người thiệt mạng ở nước này mới đây.
Hiện một số công ty may mặc đã có đơn hàng xuất khẩu sang Nhật Bản cho năm 2013, hứa hẹn xuất khẩu mặt hàng này sang Nhật Bản sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt trong năm tới.
Ngày 18/11, tại Hà Nội, Bộ Công Thương đã tổ chức Hội thảo để đánh giá tác động hội nhập sau hai năm gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam gia nhập WTO đã được hai năm. Dệt may là một trong những được coi là “mũi nhọn” và chịu nhiều tác động sau sự kiện này.
Phát biểu trên tờ “Bưu điện Phnôm Pênh”, quan chức cấp cao thuộc Hiệp hội các nhà sản xuất dệt may Campuchia, Cheath Khemara, cho rằng chỉ khoảng đầu năm 2009, ngành dệt may “xương sống” của nền kinh tế Campuchia có thể sẽ lâm vào khủng hoảng.
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chỉ chiếm được khoảng 30% thị phần nội địa, phần còn lại thuộc về hàng ngoại nhập và các nhà may nhỏ trong cả nước. Dệt may Việt Nam cần một chiến lược phát triển toàn diện và dài hạn. Hàng ngoại nhập chiếm 30% thị phần, trong đó khoảng 20% là hàng dệt may nhập khẩu từ Trung Quốc. Đó là số liệu do Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) xác định được thông qua kết quả của những cuộc nghiên cứu thị trường được tiến hành trong thời gian qua.
Do nhu cầu tiêu thụ của thị trường Mỹ và châu Âu đang giảm bởi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ, khả năng duy trì mức tăng trưởng xuất khẩu cao của ngành dệt may Việt Nam trong những tháng cuối năm và cả năm 2009 có thể bị ảnh hưởng. Trong 8 tháng đầu năm nay, cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đã có sự thay đổi, thị trường xuất khẩu đã được đa dạng hoá và tỷ lệ đóng góp vào phần kim ngạch xuất khẩu tăng thêm của Việt Nam đã thay đổi khá nhiều.
“6 năm qua, chúng tôi phải vật lộn với khủng hoảng vận tải biển, kinh tế suy thoái, những khó khăn do căng thẳng tại Biển đông… Thực sự chúng tôi sắp hết hơi rồi!” - ông Vũ Đức Then - Phó Chủ tịch Hội vận tải biển Diêm Điền - Thái Bình bày tỏ.
Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA) cho biết khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 7 ước đạt 9.000 tấn, với giá trị đạt 74 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 7 tháng đầu năm 2014 lên 119.000 tấn với giá trị 862 triệu USD, tăng gần 29% về khối lượng và tăng 42% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
Là "công xưởng của thế giới" lâu nay song chi phí đắt lên, cộng với những rủi ro nội tại, Trung Quốc mất dần sự hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư quốc tế.
Từ đầu năm đến nay, nhiều doanh nghiệp ngành dệt may, sản xuất xơ, sợi nước ngoài (doanh nghiệp FDI) tìm đến xây dựng nhà máy sản xuất ở Việt Nam với quy mô vốn đầu tư lớn.
EVN lý giải nguyên nhân vẫn phải mua điện từ phía Trung Quốc sau những ý kiến trái chiều của các chuyên gia và dư luận. Để đảm bảo cung cấp điện ổn định và đảm bảo chất lượng điện năng cho các tỉnh Tây Bắc, EVN vẫn phải duy trì mua điện Trung Quốc với một sản lượng tối thiểu.
Nhu cầu sản phẩm công nghiệp có xu hướng tăng trở lại trong khi tồn kho vẫn tiếp tục ở mức cao, giá trị gia tăng thấp là những gam màu chính trong bức tranh sản xuất công nghiệp nửa đầu năm 2014.
Với những người chủ ý mua xe ga cao cấp thì yếu tố đem ra so sánh giữa những sản phẩm của các hãng khác nhau không phải là giá cả, mà là thỏa mãn nhu cầu.
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 39/2013/QĐ-TTg ngày 27/6/2013 về việc sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 2 Quy chế hoạt động của Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải, thành phố Hải Phòng ban hành kèm theo Quyết định số 69/2011/QĐ-TTg ngày 13/12/2011.
“Thông minh như thế mà tại sao làm những chuyện như thế, nói thực là tôi không hiểu”, Phó chủ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) Nguyễn Hữu Dũng nói tại cuộc gặp gỡ báo chí sáng 5/7.
Mặc dù ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm cho sức mua tại hầu hết các thị trường lớn của ngành dệt may như Mỹ, EU, Nhật... sụt giảm nghiêm trọng, nhưng ngành dệt may VN đã nỗ lực cạnh tranh với các nước XK để giành lấy phần thị trường đang bị co hẹp, đồng thời đẩy mạnh việc chiếm lĩnh thị trường nội địa. Ông Lê Quốc Ân - Chủ tịch Hiệp hội Dệt May VN đã có cuộc trao đổi với báo giới xung quanh nội dung này.
"Năm 2010, chúng tôi sẽ cố gắng phấn đấu tăng trưởng giá trị xuất khẩu sản phẩm gỗ từ 8-10% so với năm nay. Hiệp hội sẽ đăng ký với Bộ Công Thương kim ngạch khoảng 3 tỷ USD", Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, ông Nguyễn Tôn Quyền, nói với VnEconomy ngày hôm qua.
Chiến lược phấn đấu đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) phải đạt 1,5 tỷ USD là có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế để đạt được chỉ tiêu này, nhất là trong bối cảnh khó khăn như hiện nay thì thời gian tới cần có sự liên kết giữa các cơ quan quản lý nhằm kết hợp hài hòa và tối ưu hóa các nguồn lực cho phát triển ngành hàng này. Trong đó, các DN rất cần sự hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ thông qua các chương trình bảo tồn làng nghề, khuyến công và xây dựng hạ tầng cơ sở.
Xác định rõ tầm quan trọng của ngành công nghiệp ô tô trong quá trình phát triển của đất nước, từ những năm đầu của thập niên 90, Việt Nam đã đưa ra nhiều khuyến khích nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào ngành công nghiệp này. Ngày 5/10/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 177/2004/QĐ-TTg “Về việc phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020”. Tuy nhiên, sau gần 5 năm triển khai thực hiện, nhiều chỉ tiêu của quy hoạch đã không thực hiện được hoặc hầu như chắc chắn không thực hiện được, nhất là những chỉ tiêu đến năm 2010. Những chỉ tiêu đến năm 2020 cũng rất khó có thể thực hiện được. Để làm rõ vấn đề này cần phải tính các nguyên nhân, thực trạng phát triển và đưa ra các giải pháp để bảo đảm thực hiện được các mục tiêu phát triển của ngành ô tô ở Việt Nam.
Trong 3 tháng qua, giá nhiều loại vật liệu xây dựng (VLXD) đã tăng liên tục. Giới kinh doanh dự báo, khả năng giá nhiều loại VLXD còn tăng. Thông tin này đã làm cho nhiều người có kế hoạch xây dựng nhà phải tính toán lại...
Việc chọn Việt Nam làm cứ điểm sản xuất để xuất khẩu ra toàn thế giới của các tập đoàn như Samsung, Canon, Intel... là tín hiệu cho thấy cơ hội để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam đã đến.
Cách tạo dựng công nghiệp ô tô dựa quá nặng vào các nhà đầu tư nước ngoài đã khiến ngành ô tô của VN phát triển khá ì ạch, tạo ra những khó khăn cho các doanh nghiệp VN khi tham gia lĩnh vực này. Tinkinhte xin đăng lại bài viết của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan trên SGGP về vấn đề này.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng tới nền kinh tế cả nước nói chung và thu hút đầu tư vào các khu kinh tế (KKT) miền trung nói riêng. Nhiều nhà đầu tư đã xin giãn tiến độ triển khai dự án. Các KKT miền trung cần điều chỉnh, lựa chọn những dự án và giải pháp hợp lý để thu hút đầu tư, phát triển mô hình KKT một cách có hiệu quả.
Được đánh giá là một ngành hàng mà Việt Nam có nhiều thế mạnh, nhưng ngành gốm sứ Việt Nam đang có sự phân cực rất rõ. Những đơn vị sản xuất công nghiệp - đa phần là gốm sứ xây dựng - đã và đang phát triển mạnh mẽ, trong khi dòng gốm thủ công mỹ nghệ đang gặp khó khăn rất lớn.
Tăng trưởng của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) là 38,3%; của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Hà Nội (Habeco) là 28,3% và của toàn ngành nói chung là 11,8% trong năm 2008 đã cho thấy sức hấp dẫn của những ngành hàng này, đặc biệt khi mà nhiều ngành hàng khác đang phải vật lộn để có đơn hàng.
Theo ASX Alphaliner, đội tàu của 100 hãng tàu vận tải hàng đầu trên thế giới hiện gồm khoảng 6,000 tàu đang hoạt động, trong đó có khoảng 5,000 tàu là các tàu container.