Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan trong tháng 4/2009, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ đạt được gần 14,07 triệu USD, giảm 13,08% so với tháng 3/2008, và giảm 12,10% so với tháng trước. Tính chung 4 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt trên 58,30 triệu USD, tuy có giảm 19,3% so với cùng kỳ năm trước, nhưng lại tăng 23,3% so với kế hoạch năm đề ra.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là mặt hàng có truyền thống lâu đời của Việt Nam, được xuất khẩu khá sớm so với các mặt hàng khác, đã đóng góp tích cực vào tổng kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước, đồng thời có vai trò quan trọng trong giải quyết một số vấn đề kinh tế xã hội tại nông thôn. Các mặt hàng này mức độ tăng trưởng bình quân khá cao 20%/năm, với kim ngạch xuất khẩu đạt 300 triệu USD trong năm 2004 và đạt hơn 750 triệu USD vào năm 2007, nưm 2008 mặc dù bị tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng kim ngạch xuất khẩu của cả nước cũng đạt gần 1 tỷ USD. Tuy kim ngạch xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ trong những năm qua tuy không lớn, nhưng lại có vai trò quan trọng chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, là ngành thu hút nhiều lao động tham gia làm hàng xuất khẩu.
Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này mang lại giá trị gia tăng lớn nên có thể coi là ngành hàng mũi nhọn để tập trung phát triển xuất khẩu trong các năm tới. So với một số mặt hàng khác như may mặc, gỗ và giày da co nguyên liệu đầu phải nhập khẩu nên giá trị thực thu ngoại tệ chỉ chiếm tỷ trọng từ 5-20% trong tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu. Nhưng đối với mặt hàng này thì nguyên vật liệu lại được thu lượm từ phế liệu và thứ liệu của nông lâm sản nên mang lại hiệu quả từ thực thu giá trị ngoại tệ rất cao, có những mặt hàng thủ công mỹ nghệ hầu như đạt 801-100% giá trị xuất khẩu. Cứ 1 triệu USD xuất khẩu của ngành thủ công mỹ nghệ thì lãi gấp 5-10 lần so với ngành khai thác; giải quyết việc làm từ 3 đến 5 nghìn lao động, nhóm hàng thủ công mỹ nghệ được xếp vào nhóm sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu lớn và có tỷ suất lợi nhuận cao. Đây cũng là mặt hàng được liệt vào danh sách 10 mặt hàng có mức tăng trưởng cao nhất.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan trong tháng 4/2009, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ đạt được gần 14,07 triệu USD, giảm 13,08% so với tháng 3/2008, và giảm 12,10% so với tháng trước. Tính chung 4 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt trên 58,30 triệu USD, tuy có giảm 19,3% so với cùng kỳ năm trước, nhưng lại tăng 23,3% so với kế hoạch năm đề ra.
Dự báo, nhu cầu của thị trường Thế giới đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ sẽ tiếp tục tăng. Do đó chiến lược đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ phải đạt 1,5 tỷ USD là có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này nhất là trong bối cảnh khó khăn như hiện nay thì cần phải có sự liên kết giữa các cơ quan quản lý nhằm kết hợp hài hoà và tối ưu hoá các nguồn lực phát triển cho ngành hàng này. Về lâu dài, nếu có chính sách khuyến khích phù hợp, sẽ giúp doanh nghiệp ngành thủ công mỹ nghệ có điều kiện đầu tư phát triển, tăng cường khả năng sản xuất; tạo ra các sản phẩm có mẫu mã riêng; kiểu dáng đẹp; chất lượng phù hợp … để tiếp cận và mở rộng hơn nữa với các thị trường xuất khẩu.
Về chủng loại xuất khẩu:
Cơ cấu các mặt hàng chính | Tỷ trọng (KN) tháng 4/09 |
Hàng làm bằng tre | 40,08% |
Hàng làm bằng cói | 16,94% |
Hàng làm bằng mây | 15,96% |
Hàng làm bằng lục bình, lá buông | 18,68% |
Hàng làm bằng chuối | 2,62% |
Hàng sơn mài | 0,58% |
Các loại khác | 5,12% |
Trong cơ cấu xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam tháng 4/2009 thì kim ngạch xuất khẩu mặt hàng tre đạt cao nhất 4,5 triệu USD chiếm tỷ trọng 40,08% giảm nhẹ 4,25% so với tháng trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu một số sản phẩm chính như: đũa tre (487.421 USD); hộp tre (342.921 USD); ghế tre (338.516 USD)….
Tiếp theo là mặt hàng làm bằng lục bình, lá buông với tỷ trọng 18,68% trong cơ cấu kim ngạch xuất khẩu đạt gần 2,1 triệu USD so với tháng 3/2009 thì không thay đổi. Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm làm từ lá buông đạt trên 446,7 nghìn USD; các sản phẩm chính làm từ lục bình như: giỏ lục bình (429.356 USD); rổ lục bình (204.977USD); chậu lục bình (183.925 USD)…
Mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn xếp thứ 3 là hàng làm từ cói với kim ngạch đạt 1,9 triệu USD chiếm tỷ trọng 16,94%, tăng 46,15% so với tháng trước. Một số sản phẩm chính được làm từ cói như: rổ cói (388.301 USD); hộp cói (257.634 USD); rổ lục bình (204.977 USD); chậu lục bình (183.925 USD)….
Mặt hàng bằng mây có kim ngạch xuất khẩu trong tháng đạt trên 1,79 triệu USD giảm không đáng kể so với tháng 3/2009, chiếm tỷ trọng 15,96% trong cơ cấu các mặt hàng.
Ngoài ra, kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu khác như: hàng làm bằng chuối (294.828 USD); hàng làm bằng sơn mài(65.284 USD); các loại khác (574.691 USD)…
Về thị trường xuất khẩu:
Một số thị trường đạt kim ngạch xuất khẩu cao
Thị trường | Tháng 4/2009 |
Đức | 2.654.351 |
Nhật Bản | 2.334.715 |
1.326.129 | |
Đài Loan | 818.839 |
Italia | 707.760 |
Hàn Quốc | 642.458 |
Hà Lan | 532.641 |
Anh | 489.056 |
Tây Ban Nha | 472.925 |
Ôxtrâylia | 453.797 |
Pháp | 426.643 |
Ba Lan | 404.544 |
Với kim ngạch xuất khẩu đạt trên8,4 triệu USD thì Hoa Kỳ là thị trường có kim ngạch lớn thứ 3 của mặt hàng này, tuy có giảm 18,98% so với 4 tháng 2008. Riêng trong tháng 4/2009 kim ngạch đạt trên 1,3 triệu USD giảm 56,25% so với tháng 3/2009 và giảm 35,67% so với tháng 4/2008.
(Vinanet)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com