Xe bus, phương tiện giao thông thuận tiện cho người dân ở TP Hồ Chí Minh.
Chỉ tính riêng phương tiện giao thông cá nhân, vào thời điểm tháng 8-2008, trên địa bàn TP Hồ Chí Minh đã có tới 3,6 triệu xe gắn máy và 200.000 xe ô-tô. Nếu tính theo đầu người thì chưa đến hai người dân đã có một chiếc xe gắn máy.
Trong khi đó, đường sá dù có được cải thiện và mở rộng phần nào cũng không thể đáp ứng được tốc độ phát triển phương tiện chóng mặt này. Tiếp tục phát triển các phương tiện vận tải khách công cộng (VTKCC) là giải pháp quan trọng nhất để TP Hồ Chí Minh thoát khỏi tình trạng kẹt xe đang có xu hướng ngày càng trầm trọng.
Xe buýt là chủ lực
Hiện nay, ở TP Hồ Chí Minh xe buýt vẫn giữ vai trò chủ lực (nếu không muốn nói là duy nhất) trong lực lượng VTKCC. Với 3.250 đầu xe hoạt động trên 116 tuyến trợ giá và 36 tuyến không trợ giá, xe buýt đã trở thành người bạn đồng hành thân thiết với một bộ phận khá đông người dân thành phố. Xe buýt đã chứng tỏ được tính ưu việt của nó: mỗi ngày vận chuyển được khoảng 1,2 triệu lượt người, phục vụ suốt gần 15 giờ, thời gian chờ đợi giữa hai chuyến chỉ còn từ 7 phút đến 10 phút. Cung cách phục vụ của xe buýt cũng được cải tiến với nhiều loại vé: lượt, tập, tháng, miễn, giảm giá... Loại hình tuyến cũng đa dạng: trợ giá, không trợ giá, chạy đêm, chạy nhanh, đưa rước học sinh, sinh viên, công nhân...
Tuy nhiên, hoạt động xe buýt cũng bộc lộ khá nhiều hạn chế. Mặc dù là lực lượng chủ lực VTKCC nhưng hiện nay xe buýt chỉ đáp ứng được khoảng 7,2% nhu cầu đi lại của người dân thành phố. Tốc độ xe buýt hoạt động trong thành phố chỉ đạt tối đa khoảng 16 km/giờ, khoảng cách từ nhà ra các trạm xe buýt còn xa. Tuyến xe buýt đêm còn ít... Theo kết quả khảo sát do Viện Nghiên cứu phát triển và Cục Thống kê TP Hồ Chí Minh tiến hành thì "Chỉ số hài lòng của người dân" thành phố về xe buýt giảm từ 78% năm 2006 xuống còn 49% năm 2008. Sự không hài lòng này tập trung vào năm điểm chính: Sự phân biệt giữa các loại vé sử dụng (vé lượt, vé tập và vé tháng); xe chạy ẩu, không dừng hẳn và không sát lề khi đón khách; thiếu thông tin về luồng tuyến, hành trình, giờ giấc, dịch vụ bán vé và đặc biệt là thái độ phục vụ thiếu văn minh, lịch sự của nhân viên; luồng tuyến chưa hợp lý gây nên tình trạng quá tải hoặc không có khách ở một số tuyến. Nhiều người dân rất bất bình với một số lái xe buýt chạy xe bạt mạng, lấn đường, coi thường người đi đường, rất dễ gây ra tai nạn giao thông. Ðã xảy ra không ít trường hợp xe buýt bỏ trạm, không đón những khách đi vé tháng.
Khuyến khích đầu tư phát triển VTKCC
Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2010, các phương tiện VTKCC phải thu hút được khoảng hai triệu lượt người, đáp ứng khoảng từ 10% đến 12% nhu cầu đi lại của người dân, TP Hồ Chí Minh đang nghiên cứu để đưa ra nhiều chính sách khuyến khích, ưu đãi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn phát triển VTKCC. Thành phố kiến nghị Chính phủ ban hành cơ chế hỗ trợ lãi suất phù hợp với lãi suất thị trường cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư phương tiện VTKCC nội đô, kể cả xe buýt sử dụng nhiên liệu sạch, xe buýt hai tầng, xe buýt có khớp nối, xe buýt có thiết bị hỗ trợ cho người khuyết tật. Cũng nên có quy định miễn tiền thuê đất để xây dựng trạm bảo dưỡng, sửa chữa, bãi đỗ xe của các doanh nghiệp kinh doanh VTKCC nội đô. Thành phố sẽ đặc biệt ưu đãi cho doanh nghiệp nào đầu tư vào các dự án VTKCC có quy mô lớn như: Metro, BRT, Trainway...
Cùng với lực lượng xe buýt khá hùng hậu, TP Hồ Chí Minh đang khẩn trương triển khai một loại VTKCC có khối lượng chuyên chở lớn là tuyến Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên. Tuyến Metro này dài 19,7 km, gồm 2,6km đi ngầm và 17,1 km trên cao chạy qua các quận 1, 2, 9, Thủ Ðức (TP Hồ Chí Minh) và một phần huyện Dĩ An (Bình Dương). Sau khoảng sáu, bảy năm nữa, tuyến VTKCC khối lượng lớn này sẽ đi vào hoạt động, có thể phục vụ khoảng 160.000 lượt người/ngày. Ðến năm 2020, lượng khách phục vụ sẽ đạt tới 300.000 lượt người/ngày.
Trước mắt, thành phố tập trung vào một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của lực lượng vận tải xe buýt. Mạng lưới xe buýt sẽ được hoàn thiện, đồng thời sẽ phát triển thêm một số tuyến mới chuyên phục vụ các đối tượng có hành trình đi lại ổn định như: học sinh, sinh viên và công nhân. Một số tuyến trùng lắp, bất hợp lý sẽ được điều chỉnh lại. Một số tuyến có cự ly dài sẽ được cắt ngắn. Tổ chức thí điểm làn đường dành riêng cho xe buýt trên đường Trường Chinh, Ðiện Biên Phủ và Quốc lộ 52. Tiếp theo sẽ nghiên cứu, tổ chức một đến hai làn đường ưu tiên hoặc dành riêng cho xe buýt trên các hành lang: Lăng Cha Cả - Hoàng Văn Thụ - Phan Ðăng Lưu, Bến Thành - Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Cộng Hòa - An Sương. Ðến năm 2010, phấn đấu tần suất hoạt động bình quân toàn bộ hệ thống xe buýt đạt từ 3 phút đến 5 phút/chuyến vào giờ cao điểm và từ 7 phút đến 10 phút/chuyến vào giờ bình thường. Thời gian hoạt động của xe buýt sẽ kéo dài từ 16 giờ đến 17 giờ một ngày...
Theo một số chuyên gia giao thông nước ngoài, mạng lưới tuyến xe buýt TP Hồ Chí Minh hiện nay chưa thật sự khoa học. Không nên tổ chức mạng lưới tuyến tập trung về trung tâm mà nên phân theo vùng. Mỗi vùng sử dụng một loại xe buýt riêng cho phù hợp: Vùng trung tâm sử dụng xe buýt nhỏ và vừa, vùng ven trung tâm sử dụng xe buýt lớn hơn. Bên cạnh đó cần xây dựng các điểm trung chuyển cho xe buýt trung tâm và xe buýt vùng ven.
Tuy nhiên điều quyết định để người dân đến với phương tiện VTKCC chính là "văn hóa bên trong" và "văn hóa bên ngoài" xe buýt. Ðó là thái độ phục vụ ân cần, lịch sự của nhân viên trên xe và cung cách chạy xe trên đường của lái xe.
“6 năm qua, chúng tôi phải vật lộn với khủng hoảng vận tải biển, kinh tế suy thoái, những khó khăn do căng thẳng tại Biển đông… Thực sự chúng tôi sắp hết hơi rồi!” - ông Vũ Đức Then - Phó Chủ tịch Hội vận tải biển Diêm Điền - Thái Bình bày tỏ.
Những con tàu biển hàng nghìn tỉ đồng nằm phơi nắng phơi sương, thậmchí bán rẻ cũng không có người mua. Có trường hợp chủ nợ phải đem tàu đibán sắt vụn để thu hồi được đồng nào hay đồng ấy...
25 công ty cung cấp dịch vụ logistics hàng đầu thế giới đã có mặt tại Việt Nam - con số khiêm tốn so với hơn 1.000 DN trong nước hoạt động trong lĩnh vực này. Song, số ít DN ngoại này lại nắm giữ phần lớn "miếng bánh" logistics Việt Nam.
“Nguy cơ mất cảng liên doanh vào tay các đối tác nước ngoài để họ chi phối thị trường kinh doanh dịch vụ cảng biển Việt Nam là điều có thể xảy ra.” - ông Tuấn lo lắng.
Thông tin từ Đại sứ quán Pháp, từ ngày 24 - 27/9/2012, 5 doanh nghiệp Pháp sẽ có mặt tại Việt Nam để tham gia Chuyến công tác tìm hiểu ngành cảng biển và logistic do Cơ quan thương mại Ubifrance Việt Nam tổ chức.
Ông Nguyễn Văn Bích, Giám đốc Cảng Trà Nóc, thuộc Công ty lương thực Sông Hậu (Tổng Công ty Lương thực miền Nam), cho biết: Từ đầu năm đến ngày 26-2-2009, cảng Trà Nóc đã thực hiện bốc xếp 500.000 tấn hàng hóa các loại như vật liệu xây dựng, nguyên liệu thức ăn gia súc, hàng bách hóa, gạo... tăng 15% sản lượng hàng hóa thông qua cảng so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 25% kế hoạch năm 2009, doanh thu đạt 12 tỉ đồng.
Trong 2 tháng đầu năm, Cảng Sài Gòn đã bốc xếp được hơn 2,9 triệu tấn hàng hóa các loại, đạt 23,7% kế hoạch sản lượng năm 2009, tăng 40,9% so với mức thực hiện cùng kỳ năm 2008.
Từ tám năm nay, ngành vận tải hàng hóa đường bộ Hải Phòng đã có sự phát triển đột biến về số lượng. Vậy thì sự phát triển ấy đã thể hiện "đặc trưng" gì của ngành vận tải VN nói chung, của Hải Phòng nói riêng ? Và đặc trưng ấy là bình thường, hay không bình thường? Là lành mạnh, ổn định trong phát triển, hay lại đang tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định?
Từ tám năm nay, ngành vận tải hàng hóa đường bộ Hải Phòng đã có sự phát triển đột biến về số lượng. Vậy thì sự phát triển ấy đã thể hiện "đặc trưng" gì của ngành vận tải VN nói chung, của Hải Phòng nói riêng ? Và đặc trưng ấy là bình thường, hay không bình thường? Là lành mạnh, ổn định trong phát triển, hay lại đang tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định?
Chiều 19/2, Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã trao Giấy chứng nhận đầu tư cho công ty Mapletree Investments Pte. Ltd của Singapore để xây dựng khu kho vận quốc tế tại Khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP Bắc Ninh, với tổng vốn đầu tư 115 triệu USD.
Câu hỏi tưởng quá đơn giản, vậy mà lại trở nên thật “khó khăn” cho ngay cả các cơ quan chức năng và chính những DN đang được gọi là DN taxi. Không chỉ có vậy, rất nhiều DN taxi bức xúc vì phải chịu thêm một loại giấy phép con dưới hình thức dán tem hàng năm đối với “taxi chính hãng”.
“6 năm qua, chúng tôi phải vật lộn với khủng hoảng vận tải biển, kinh tế suy thoái, những khó khăn do căng thẳng tại Biển đông… Thực sự chúng tôi sắp hết hơi rồi!” - ông Vũ Đức Then - Phó Chủ tịch Hội vận tải biển Diêm Điền - Thái Bình bày tỏ.
Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA) cho biết khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 7 ước đạt 9.000 tấn, với giá trị đạt 74 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 7 tháng đầu năm 2014 lên 119.000 tấn với giá trị 862 triệu USD, tăng gần 29% về khối lượng và tăng 42% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
Là "công xưởng của thế giới" lâu nay song chi phí đắt lên, cộng với những rủi ro nội tại, Trung Quốc mất dần sự hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư quốc tế.
Từ đầu năm đến nay, nhiều doanh nghiệp ngành dệt may, sản xuất xơ, sợi nước ngoài (doanh nghiệp FDI) tìm đến xây dựng nhà máy sản xuất ở Việt Nam với quy mô vốn đầu tư lớn.
EVN lý giải nguyên nhân vẫn phải mua điện từ phía Trung Quốc sau những ý kiến trái chiều của các chuyên gia và dư luận. Để đảm bảo cung cấp điện ổn định và đảm bảo chất lượng điện năng cho các tỉnh Tây Bắc, EVN vẫn phải duy trì mua điện Trung Quốc với một sản lượng tối thiểu.
Nhu cầu sản phẩm công nghiệp có xu hướng tăng trở lại trong khi tồn kho vẫn tiếp tục ở mức cao, giá trị gia tăng thấp là những gam màu chính trong bức tranh sản xuất công nghiệp nửa đầu năm 2014.
Với những người chủ ý mua xe ga cao cấp thì yếu tố đem ra so sánh giữa những sản phẩm của các hãng khác nhau không phải là giá cả, mà là thỏa mãn nhu cầu.
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 39/2013/QĐ-TTg ngày 27/6/2013 về việc sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 2 Quy chế hoạt động của Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải, thành phố Hải Phòng ban hành kèm theo Quyết định số 69/2011/QĐ-TTg ngày 13/12/2011.
“Thông minh như thế mà tại sao làm những chuyện như thế, nói thực là tôi không hiểu”, Phó chủ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) Nguyễn Hữu Dũng nói tại cuộc gặp gỡ báo chí sáng 5/7.
Mặc dù ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm cho sức mua tại hầu hết các thị trường lớn của ngành dệt may như Mỹ, EU, Nhật... sụt giảm nghiêm trọng, nhưng ngành dệt may VN đã nỗ lực cạnh tranh với các nước XK để giành lấy phần thị trường đang bị co hẹp, đồng thời đẩy mạnh việc chiếm lĩnh thị trường nội địa. Ông Lê Quốc Ân - Chủ tịch Hiệp hội Dệt May VN đã có cuộc trao đổi với báo giới xung quanh nội dung này.
"Năm 2010, chúng tôi sẽ cố gắng phấn đấu tăng trưởng giá trị xuất khẩu sản phẩm gỗ từ 8-10% so với năm nay. Hiệp hội sẽ đăng ký với Bộ Công Thương kim ngạch khoảng 3 tỷ USD", Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, ông Nguyễn Tôn Quyền, nói với VnEconomy ngày hôm qua.
Chiến lược phấn đấu đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) phải đạt 1,5 tỷ USD là có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế để đạt được chỉ tiêu này, nhất là trong bối cảnh khó khăn như hiện nay thì thời gian tới cần có sự liên kết giữa các cơ quan quản lý nhằm kết hợp hài hòa và tối ưu hóa các nguồn lực cho phát triển ngành hàng này. Trong đó, các DN rất cần sự hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ thông qua các chương trình bảo tồn làng nghề, khuyến công và xây dựng hạ tầng cơ sở.
Xác định rõ tầm quan trọng của ngành công nghiệp ô tô trong quá trình phát triển của đất nước, từ những năm đầu của thập niên 90, Việt Nam đã đưa ra nhiều khuyến khích nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào ngành công nghiệp này. Ngày 5/10/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 177/2004/QĐ-TTg “Về việc phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020”. Tuy nhiên, sau gần 5 năm triển khai thực hiện, nhiều chỉ tiêu của quy hoạch đã không thực hiện được hoặc hầu như chắc chắn không thực hiện được, nhất là những chỉ tiêu đến năm 2010. Những chỉ tiêu đến năm 2020 cũng rất khó có thể thực hiện được. Để làm rõ vấn đề này cần phải tính các nguyên nhân, thực trạng phát triển và đưa ra các giải pháp để bảo đảm thực hiện được các mục tiêu phát triển của ngành ô tô ở Việt Nam.
Trong 3 tháng qua, giá nhiều loại vật liệu xây dựng (VLXD) đã tăng liên tục. Giới kinh doanh dự báo, khả năng giá nhiều loại VLXD còn tăng. Thông tin này đã làm cho nhiều người có kế hoạch xây dựng nhà phải tính toán lại...
Việc chọn Việt Nam làm cứ điểm sản xuất để xuất khẩu ra toàn thế giới của các tập đoàn như Samsung, Canon, Intel... là tín hiệu cho thấy cơ hội để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam đã đến.
Cách tạo dựng công nghiệp ô tô dựa quá nặng vào các nhà đầu tư nước ngoài đã khiến ngành ô tô của VN phát triển khá ì ạch, tạo ra những khó khăn cho các doanh nghiệp VN khi tham gia lĩnh vực này. Tinkinhte xin đăng lại bài viết của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan trên SGGP về vấn đề này.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng tới nền kinh tế cả nước nói chung và thu hút đầu tư vào các khu kinh tế (KKT) miền trung nói riêng. Nhiều nhà đầu tư đã xin giãn tiến độ triển khai dự án. Các KKT miền trung cần điều chỉnh, lựa chọn những dự án và giải pháp hợp lý để thu hút đầu tư, phát triển mô hình KKT một cách có hiệu quả.
Được đánh giá là một ngành hàng mà Việt Nam có nhiều thế mạnh, nhưng ngành gốm sứ Việt Nam đang có sự phân cực rất rõ. Những đơn vị sản xuất công nghiệp - đa phần là gốm sứ xây dựng - đã và đang phát triển mạnh mẽ, trong khi dòng gốm thủ công mỹ nghệ đang gặp khó khăn rất lớn.
Tăng trưởng của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) là 38,3%; của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Hà Nội (Habeco) là 28,3% và của toàn ngành nói chung là 11,8% trong năm 2008 đã cho thấy sức hấp dẫn của những ngành hàng này, đặc biệt khi mà nhiều ngành hàng khác đang phải vật lộn để có đơn hàng.
Theo ASX Alphaliner, đội tàu của 100 hãng tàu vận tải hàng đầu trên thế giới hiện gồm khoảng 6,000 tàu đang hoạt động, trong đó có khoảng 5,000 tàu là các tàu container.