Để phát triển vật liệu xây không nung (VLXKN) nhằm sớm xóa bỏ lò gạch thủ công, cần phải có những nhóm giải pháp đồng bộ. Phóng viên Báo Hànộimới đã trao đổi với TS Nguyễn Sinh Minh, Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ và kinh tế xây dựng Hà Nội xung quanh vấn đề này.
Lò sản xuất gạch xây dựng tại xã Thống Nhất (huyện Thường Tín). Ảnh: Bá Hoạt
- Xóa bỏ lò gạch thủ công là yêu cầu cấp thiết, tuy nhiên có thực tế là các nhà máy sản xuất gạch bằng lò tuynel và sản xuất VLXKN mới đáp ứng được 50% nhu cầu thị trường. Vậy theo ông phải giải quyết vấn đề này thế nào?
- Hiện nay, VLXD cung cấp cho nhu cầu của Hà Nội gồm 3 nguồn chính: từ các cơ sở sản xuất tại chỗ của Hà Nội, các cơ sở sản xuất khác trong nước và nguồn nhập khẩu. Hà Nội không phải là địa phương sản xuất theo phương thức tự cung, tự cấp, mà tiếp nhận sản phẩm VLXD của chính mình, của cả nước và quốc tế để làm cầu nối lưu thông, phân phối cho các địa phương khác trong vùng cũng như xuất khẩu. Vì vậy, Hà Nội chỉ nên sản xuất VLXD thế mạnh và mũi nhọn mang hàm lượng trí tuệ, công nghệ cao, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường. Riêng gạch xây, để bảo vệ môi trường, phát triển Thủ đô bền vững, định hướng đang được nghiên cứu đề xuất đến năm 2015 VLXKN sẽ chiếm 20-25% tổng sản lượng gạch xây và đến năm 2020 chiếm 30-40%; phát triển gạch nung bằng lò tuynel theo xu thế giảm dần tỷ trọng so với tổng sản lượng gạch xây. Những cơ sở sản xuất gạch nung bằng công nghệ lò tuynel tiếp tục cải tiến công nghệ để tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường. Tiếp tục duy trì việc xóa bỏ các lò gạch thủ công, phần gạch xây còn thiếu so với nhu cầu sẽ được cung cấp từ các tỉnh lân cận.
- Muốn phát triển VLXKN cần có điều kiện gì, giải pháp nào khả thi, thưa ông? - Theo tôi, cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp. Thứ nhất, về cơ chế chính sách, cần quản lý chặt chẽ, giảm dần việc sản xuất gạch đất sét nung; tăng thuế khai thác tài nguyên đất sét làm VLXD; có cơ chế bắt buộc hoặc khuyến khích sử dụng VLXKN vào công trình XD thích hợp ngay từ khâu lập dự án đầu tư, thiết kế, thi công. Tất nhiên cơ chế này cần áp dụng theo lộ trình được nghiên cứu cẩn thận, vì có liên quan đến nhiều mặt. Thứ hai, sản xuất VLXKN hoặc đầu tư chế tạo thiết bị sản xuất VLXKN phù hợp với quy hoạch cần được xếp vào lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư, tiền thuê đất, thuế và vốn... Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất VLXKN trong điều kiện Việt Nam để hạ giá thành sản phẩm như sử dụng phế thải công nghiệp để sản xuất VLXKN. Chế tạo phụ gia sản xuất gạch nhẹ hiện tại đang phải nhập khẩu. Tập trung nghiên cứu đưa ra quy trình sản xuất, lựa chọn các thông số công nghệ chế tạo sản phẩm phù hợp với điều kiện của nước ta... Ngoài ra, cần tăng cường các hoạt động chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực về sản xuất và sử dụng VLXKN theo 2 hình thức: Nhà nước bỏ vốn đào tạo hoặc hỗ trợ cho doanh nghiệp đào tạo; các doanh nghiệp sản xuất cũng phải tự đào tạo tại chỗ, hoặc tổ chức tham quan, học tập nước ngoài.
- Được biết, Sở Xây dựng đã giao cho Viện nghiên cứu các đề tài khoa học phát triển VLXKN. Xin ông cho biết kết quả nghiên cứu và triển vọng ứng dụng thực tế?
- Với đề tài nghiên cứu công nghệ sản xuất bê tông bọt ứng dụng cho việc xây dựng nhà cao tầng và các khu đô thị mới, chúng tôi đã phân tích nguồn nguyên vật liệu sẵn có; sản xuất thử bê tông bọt cách nhiệt, bê tông bọt công trình. Qua các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, chúng tôi đã đề xuất phương án đầu tư thiết bị công nghệ sản xuất các sản phẩm trên trong các nhà máy chế tạo cấu kiện đúc sẵn hoặc đổ tại chỗ, sử dụng nguồn nguyên liệu chủ yếu trong nước và thiết bị có trên thị trường. Điều đó cho thấy việc ứng dụng kết quả nghiên cứu của đề tài trong thực tiễn là hoàn toàn khả thi.
Đề tài nghiên cứu các giải pháp vật liệu, kết cấu, thi công tường bê tông nhẹ trong các khu chung cư xây mới và sửa chữa các công trình xây dựng trên địa bàn Hà Nội có ý nghĩa định hướng cho việc chọn vật liệu, thiết kế thành phần và thiết lập quy trình công nghệ cho sản xuất bê tông nhẹ. Đề tài đã đề xuất 5 chỉ dẫn kỹ thuật trong thiết kế, thi công, nghiệm thu các loại kết cấu tường bê tông nhẹ. Trên cơ sở vật liệu tại chỗ, các nghiên cứu trong phạm vi đề tài cho thấy, việc sản xuất và ứng dụng bê tông nhẹ cho kết cấu tường trong điều kiện hiện nay ở Hà Nội là hoàn toàn khả thi và rất cần thiết. - Xin cảm ơn ông.
Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với kiến nghị của Bộ Xây dựng đưa 9 dự án xi măng quy mô công suất dưới 2.500 tấn clinke/ngày ra khỏi quy hoạch phát triển ngành xi măng.
Xuất khẩu đang được xem là lối thoát duy nhất giúp các DN trong ngành thép giảm lượng áp lực tồn kho. Tuy nhiên, cánh cửa này cũng đang dần khép lại khi những thị trường XK ít ỏi mà DN thép của Việt Nam đã dày công xây dựng đều đang đưa ra các vụ kiện phòng vệ thương mại.
Tiếp theo bài viết “Ba vấn đề của DN ngành xi măng”, báo DĐDN tiếp tục vấn đề với mục tiêu đi tìm những cơ hội, giải pháp để thoát khỏi nguy cơ phá sản cho DN nhóm ngành này.
Theo tính toán của Bộ Xây dựng, Hội vật liệu xây dựng Việt Nam thị trường xi măng của ta vẫn đang cung vượt quá cầu. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc ngành xi măng trở nên ế ẩm, thua lỗ.
Năm 2005, với việc ra đời Nhà máy xi-măng Sông Gianh công suất 1,4 triệu tấn/năm, tỉnh Quảng Bình bắt đầu ghi tên mình vào danh sách những tỉnh có tiềm năng lớn về công nghiệpxi-măng và được các nhà đầu tư quan tâm hơn. Với nguồn nguyên liệu đá vôi dồi dào, Quảng Bình đang hướng đến mục tiêu sau năm 2015 trở thành một trong những tỉnh sản xuất xi-măng lớn của cả nước.
Ngày 19/5 tại Nghệ An, Tổng Công ty phát triển và Đô thị Kinh Bắc (thành viên Tập đoàn Đầu tư Sài Gòn và Công ty Cổ phần ximăng Sài Gòn Tân Kỳ đã khởi công xây dựng Khu công nghiệp ximăng Sài Gòn-Tân Kỳ, có tổng vốnđầu tư 1,5 tỷ USD.
Theo dự báo, sang quý 2, giá thép trên thế giới và trong nước tiếp tục tăng do nhu cầu cao và khan hiếm nguồn nguyên liệu. Trong khi đó, giá ximăng chỉ tăng nhẹ do cung vẫn vượt cầu.
Hội Vật liệu xây dựng (VLXD) vừa có đề nghị Chính phủ xem xét cho giảm thuế VAT từ 10% xuống 5% cho mặt hàng VLXD để đối phó với tình trạng giá năng lượng, nguyên vật liệu đầu vào tăng cao.
Thủ tướng Chính phủ vừa thông qua chương trình phát triển vật liệu xây dựng (VLXD) không nung đến năm 2020 nhằm thay thế 30-40% VLXD bằng đất sét nung. Theo chương trình này, từ năm 2011, các công trình cao từ 9 tầng trở lên bắt buộc sử dụng tối thiểu 30% VLXD không nung loại nhẹ. Tác dụng của chương trình đã rõ (vừa giảm ô nhiễm môi trường, vừa bảo vệ đất sản xuất nông nghiệp), song vấn đề là làm thế nào để có đủ vật liệu không nung thay thế vật liệu từ đất sét nung như mục tiêu chương trình đề ra?
Thời gian qua, vật liệu xây dựng, trong đó có sản phẩm kính, tăng giá mạnh, buộc nước ta phải nhập khẩu một lượng lớn. Tuy nhiên, mới đây, Nhà máy Kính nổi Chu Lai đi vào hoạt động, khẳng định sự lớn mạnh vượt bậc của ngành sản xuất kính xây dựng trong nước.
Thị trường vật liệu xây dựng (VLXD) đang bước vào mùa “ăn hàng” lớn nhất trong năm. Thế nhưng, thị trường béo bở này đang phải nhường sân chơi cho các mặt hàng có xuất xứ từ Trung Quốc (TQ) với giá cực rẻ.
Giá bán xi măng tại thị trường trong quý II năm 2010 sẽ tiếp tục có sự điều chỉnh do các doanh nghiệp (DN) không thể kham nổi bởi chi phí đầu vào tăng quá cao.
“6 năm qua, chúng tôi phải vật lộn với khủng hoảng vận tải biển, kinh tế suy thoái, những khó khăn do căng thẳng tại Biển đông… Thực sự chúng tôi sắp hết hơi rồi!” - ông Vũ Đức Then - Phó Chủ tịch Hội vận tải biển Diêm Điền - Thái Bình bày tỏ.
Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA) cho biết khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 7 ước đạt 9.000 tấn, với giá trị đạt 74 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 7 tháng đầu năm 2014 lên 119.000 tấn với giá trị 862 triệu USD, tăng gần 29% về khối lượng và tăng 42% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
Là "công xưởng của thế giới" lâu nay song chi phí đắt lên, cộng với những rủi ro nội tại, Trung Quốc mất dần sự hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư quốc tế.
Từ đầu năm đến nay, nhiều doanh nghiệp ngành dệt may, sản xuất xơ, sợi nước ngoài (doanh nghiệp FDI) tìm đến xây dựng nhà máy sản xuất ở Việt Nam với quy mô vốn đầu tư lớn.
EVN lý giải nguyên nhân vẫn phải mua điện từ phía Trung Quốc sau những ý kiến trái chiều của các chuyên gia và dư luận. Để đảm bảo cung cấp điện ổn định và đảm bảo chất lượng điện năng cho các tỉnh Tây Bắc, EVN vẫn phải duy trì mua điện Trung Quốc với một sản lượng tối thiểu.
Nhu cầu sản phẩm công nghiệp có xu hướng tăng trở lại trong khi tồn kho vẫn tiếp tục ở mức cao, giá trị gia tăng thấp là những gam màu chính trong bức tranh sản xuất công nghiệp nửa đầu năm 2014.
Với những người chủ ý mua xe ga cao cấp thì yếu tố đem ra so sánh giữa những sản phẩm của các hãng khác nhau không phải là giá cả, mà là thỏa mãn nhu cầu.
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 39/2013/QĐ-TTg ngày 27/6/2013 về việc sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 2 Quy chế hoạt động của Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải, thành phố Hải Phòng ban hành kèm theo Quyết định số 69/2011/QĐ-TTg ngày 13/12/2011.
“Thông minh như thế mà tại sao làm những chuyện như thế, nói thực là tôi không hiểu”, Phó chủ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) Nguyễn Hữu Dũng nói tại cuộc gặp gỡ báo chí sáng 5/7.
Mặc dù ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm cho sức mua tại hầu hết các thị trường lớn của ngành dệt may như Mỹ, EU, Nhật... sụt giảm nghiêm trọng, nhưng ngành dệt may VN đã nỗ lực cạnh tranh với các nước XK để giành lấy phần thị trường đang bị co hẹp, đồng thời đẩy mạnh việc chiếm lĩnh thị trường nội địa. Ông Lê Quốc Ân - Chủ tịch Hiệp hội Dệt May VN đã có cuộc trao đổi với báo giới xung quanh nội dung này.
"Năm 2010, chúng tôi sẽ cố gắng phấn đấu tăng trưởng giá trị xuất khẩu sản phẩm gỗ từ 8-10% so với năm nay. Hiệp hội sẽ đăng ký với Bộ Công Thương kim ngạch khoảng 3 tỷ USD", Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, ông Nguyễn Tôn Quyền, nói với VnEconomy ngày hôm qua.
Chiến lược phấn đấu đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) phải đạt 1,5 tỷ USD là có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế để đạt được chỉ tiêu này, nhất là trong bối cảnh khó khăn như hiện nay thì thời gian tới cần có sự liên kết giữa các cơ quan quản lý nhằm kết hợp hài hòa và tối ưu hóa các nguồn lực cho phát triển ngành hàng này. Trong đó, các DN rất cần sự hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ thông qua các chương trình bảo tồn làng nghề, khuyến công và xây dựng hạ tầng cơ sở.
Xác định rõ tầm quan trọng của ngành công nghiệp ô tô trong quá trình phát triển của đất nước, từ những năm đầu của thập niên 90, Việt Nam đã đưa ra nhiều khuyến khích nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào ngành công nghiệp này. Ngày 5/10/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 177/2004/QĐ-TTg “Về việc phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020”. Tuy nhiên, sau gần 5 năm triển khai thực hiện, nhiều chỉ tiêu của quy hoạch đã không thực hiện được hoặc hầu như chắc chắn không thực hiện được, nhất là những chỉ tiêu đến năm 2010. Những chỉ tiêu đến năm 2020 cũng rất khó có thể thực hiện được. Để làm rõ vấn đề này cần phải tính các nguyên nhân, thực trạng phát triển và đưa ra các giải pháp để bảo đảm thực hiện được các mục tiêu phát triển của ngành ô tô ở Việt Nam.
Trong 3 tháng qua, giá nhiều loại vật liệu xây dựng (VLXD) đã tăng liên tục. Giới kinh doanh dự báo, khả năng giá nhiều loại VLXD còn tăng. Thông tin này đã làm cho nhiều người có kế hoạch xây dựng nhà phải tính toán lại...
Việc chọn Việt Nam làm cứ điểm sản xuất để xuất khẩu ra toàn thế giới của các tập đoàn như Samsung, Canon, Intel... là tín hiệu cho thấy cơ hội để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam đã đến.
Cách tạo dựng công nghiệp ô tô dựa quá nặng vào các nhà đầu tư nước ngoài đã khiến ngành ô tô của VN phát triển khá ì ạch, tạo ra những khó khăn cho các doanh nghiệp VN khi tham gia lĩnh vực này. Tinkinhte xin đăng lại bài viết của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan trên SGGP về vấn đề này.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng tới nền kinh tế cả nước nói chung và thu hút đầu tư vào các khu kinh tế (KKT) miền trung nói riêng. Nhiều nhà đầu tư đã xin giãn tiến độ triển khai dự án. Các KKT miền trung cần điều chỉnh, lựa chọn những dự án và giải pháp hợp lý để thu hút đầu tư, phát triển mô hình KKT một cách có hiệu quả.
Được đánh giá là một ngành hàng mà Việt Nam có nhiều thế mạnh, nhưng ngành gốm sứ Việt Nam đang có sự phân cực rất rõ. Những đơn vị sản xuất công nghiệp - đa phần là gốm sứ xây dựng - đã và đang phát triển mạnh mẽ, trong khi dòng gốm thủ công mỹ nghệ đang gặp khó khăn rất lớn.
Tăng trưởng của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) là 38,3%; của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Hà Nội (Habeco) là 28,3% và của toàn ngành nói chung là 11,8% trong năm 2008 đã cho thấy sức hấp dẫn của những ngành hàng này, đặc biệt khi mà nhiều ngành hàng khác đang phải vật lộn để có đơn hàng.
Theo ASX Alphaliner, đội tàu của 100 hãng tàu vận tải hàng đầu trên thế giới hiện gồm khoảng 6,000 tàu đang hoạt động, trong đó có khoảng 5,000 tàu là các tàu container.