Sở hữu kho dự trữ ngoại hối 3 nghìn tỷ USD và ngày càng “khát” tài nguyên thiên nhiên, Trung Quốc đang đẩy mạnh hoạt động đầu tư ra khắp thế giới. Vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (FDI) của các công ty Trung Quốc đã tăng từ 5,5 tỷ USD vào năm 2004 lên 61,81 tỷ USD vào năm 2010 - hãng tin CNBC cho biết.
Hoạt động đầu tư của Trung Quốc đã vấp phải rào cản chính trị ở nhiều quốc gia, khiến nhiều thỏa thuận lớn bị đổ bể. Theo quỹ Heritage Foundation, riêng trong năm 2011, số vụ đầu tư ở nước ngoài với tổng trị giá 32,8 tỷ USD của các nhà đầu tư Trung Quốc đã thất bại, ngang với một nửa giá trị 60,1 tỷ USD của các thỏa thuận mà các doanh nghiệp nước này đạt được ở bên ngoài biên giới.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hai đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc là Mỹ và châu Âu đang rất cần vốn, các nhà đầu tư Trung Quốc sẽ có nhiều cơ hội hơn khi nước này dự kiến chi 560 tỷ USD để đầu tư ra nước ngoài trong vòng 5 năm tới.
Với số liệu từ Bộ Thương mại Trung Quốc, CNBC điểm 10 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận nhiều vốn FDI từ nước này nhất trong thời gian 2004-2010:
10. Myanmar
Vốn FDI từ Trung Quốc trong thời gian 2004-2010: 1,6 tỷ USD
Với nguồn tài nguyên dầu khí dồi dào cũng nhiều mỏ khoáng sản, Myanmar có sức hút lớn đối với các công ty Trung Quốc. Đối với Myanmar, Trung Quốc là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất và là đối tác thương mại lớn thứ nhì. Từ năm 2008 tới nay, vốn FDI của Trung Quốc vào Myanmar tăng mạnh từ mức 233 triệu USD lên 876 triệu USD. Các doanh nghiệp Trung Quốc làm ăn tại Myanmar đầu tư vào mọi lĩnh vực từ cơ sở hạ tầng, thủy điện tới đường ông dẫn dầu khí. Các doanh nghiệp dầu khí lớn nhất của Trung Quốc gồm CNPC, Sinopec và CNOOC đều có mặt ở Myanmar. Tuy nhiên, sau khi Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Canada và Australia nới lỏng lệnh trừng phạt với Myanmar, mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp phương Tây tới Myanmar làm ăn, thì các công ty Trung Quốc sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt.
9. Nga
Vốn FDI từ Trung Quốc trong thời gian 2004-2010: 2,5 tỷ USD
Vốn FDI của Trung Quốc vào Nga tăng từ mức 77 triệu USD vào năm 2004 lên 568 triệu USD vào năm 2010. Những con số này là khiêm tốn xét tới việc Nga là nước láng giềng của Trung Quốc. Các lĩnh vực thu hút doanh nghiệp Trung Quốc tại Nga trải rộng từ năng lượng tới cơ sở hạ tầng. Tháng 10 năm ngoái, hai nước thành lập một quỹ đầu tư chung, trong đó quỹ lợi ích quốc gia China Investment Corp. sẽ đầu tư 1 tỷ USD vào quỹ này và phía Nga đóng góp thêm 1 tỷ USD. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư giữa hai nước đã chịu ảnh hưởng bất lợi do một số bất đồng về cung cấp năng lượng và việc hai nước cạnh tranh ảnh hưởng ở khu vực Trung Á. Năm ngoái, các cuộc đàm phán về xây dựng một đường ống dẫn khí đốt từ Nga sang Trung Quốc đã đổ bể khi Trung Quốc chọn tiếp nhận nguồn cung cấp khí đốt bổ sung từ Turkmenistan vốn là đối thủ của Nga trên thị trường khí đốt. Tuy nhiên, tình hình đã khả quan hơn khi Trung Quốc mới đây tuyên bố đã đưa ra một đề xuất thỏa thuận khí đốt mới với Nga.
8. Canada
Vốn FDI từ Trung Quốc trong thời gian 2004-2010: 2,9 tỷ USD
Trung Quốc là nhà đầu tư lớn trong lĩnh vực dầu cát (oil sands) ở Canada. Tỉnh Alberta, nơi có trữ lượng dầu cát lớn thứ nhì thế giới sau Saudi Arabia, rất được các công ty năng lượng Trung Quốc quan tâm. Năm 2005, PetroChina đã ký thỏa thuận với công ty năng lương Enbridge của Canada để xây dựng một đường ống dẫn tới bờ biển phía Tây Canada để dầu thô chiết xuất từ dầu cát có thể được vận chuyển tới châu Á. Đầu năm nay, PetroChina đã mua đứt một dự án dầu cát ở Canada và dự kiến sẽ bắt đầu sản xuất 35.000 thùng dầu mỗi ngày vào năm 2014. Từ tháng 7/2011, các công ty Trung Quốc trong lĩnh vực năng lượng đã thâu tóm 5,5 tỷ USD tài sản ở Canada. Tuy nhiên, hiện Trung Quốc không nhập khẩu dầu từ Canada do vấp phải những rào cản liên quan tới vấn đề môi trường.
7. Mỹ
Vốn FDI từ Trung Quốc trong thời gian 2004-2010: 3,4 tỷ USD
Vào năm 2009, vốn FDI của Trung Quốc vào Mỹ mới là 462 triệu USD, đến năm 2010, con số này tăng lên 1,3 tỷ USD. Tuy nhiên, các nhà đầu tư Trung Quốc mới chỉ chiếm một phần nhỏ vốn FDI vào Mỹ. 95% vốn FDI rót vào Mỹ là từ châu Âu và Canada. Các doanh nghiệp Trung Quốc khá “ngại” khi vào Mỹ, vì họ hay vấp phải những “chướng ngại vật” chính trị. Tập đoàn dầu lửa quốc doanh CNOOC của Trung Quốc từng thất bại khi chào mua hãng Unocal của Mỹ vào năm 2005. Từ đó, các công ty Trung Quốc chỉ mua cổ phần nhỏ trong các dự án dầu khí của Mỹ như vụ CNOOC chi 1,1 tỷ USD mua cổ phần 33% trong dự án dầu ở South Texas từ Chesapeake Energy.
6. Singapore
Vốn FDI từ Trung Quốc trong thời gian 2004-2010: 4,7 tỷ USD
Với tư cách là một trung tâm tài chính ở châu Á, Singapore đang tỏ rõ sức hút đối với các nhà đầu tư Trung Quốc. Năm 2008, vốn FDI của Trung Quốc vào Singapore đã lên mức 1,55 tỷ USD trước khi giảm về 1,1 tỷ USD vào năm 2010. Tháng 4 vừa rồi, công ty Guangdong Nuclear Power của Trung Quốc công bố kế hoạch xây dựng một nhà máy năng lượng mặt trời và sinh khối tại Singapore vào năm 2012. Dự án này được xem là chìa khóa để đưa Singapore trở thành cửa ngõ thị trường năng lượng sạch ở châu Á. Thị trường bất động sản Singapore cũng rất hấp dẫn các nhà đầu tư Trung Quốc, trong đó các khách hàng Trung Quốc chiêm 28% số vụ người nước ngoài mua nhà ở Singapore trong năm 2011.
5. Nam Phi
Vốn FDI từ Trung Quốc trong thời gian 2004-2010: 5,8 tỷ USD
Nền kinh tế lớn nhất châu Phi xuất khẩu 5,5 tỷ USD khoáng sản sang Trung Quốc mỗi năm. Trung Quốc cũng là đối tác thương mại lớn nhất của Nam Phi. Tháng 9 năm ngoái, Trung Quốc nhất trí sẽ đầu tư 2,5 tỷ USD vào lĩnh vực khoáng sản ở Nam Phi. Vốn FDI của Trung Quốc vào Nam Phi đạt đỉnh 4,8 tỷ USD vào năm 2008. Cùng năm đó, ngân hàng ICBC của Trung Quốc mua cổ phần 20% của ngân hàng Standard Bank Nam phi với giá 5,5 tỷ USD. Nam Phi cũng là cửa ngõ đầu tư vào Nam Phi đối với Trung Quốc. Bắc Kinh đã hỗ trợ vốn cho nhiều dự án cơ sở hạ tầng ở các nước châu Phi để đổi lấy tài nguyên và khoáng sản. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2007, Trung Quốc đã cho vay 4,5 tỷ USD đối với các dự án cơ sở hạ tầng ở Nam Phi.
4. Australia
Vốn FDI từ Trung Quốc trong thời gian 2004-2010: 6,97 tỷ USD
Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của Australia. Nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào của Australia tạo ra sức hấp dẫn khó cưỡng đối với vốn FDI từ Trung Quốc. Vốn FDI của Trung Quốc vào Australia tăng từ 531,6 triệu USD vào năm 2007 lên 1,9 tỷ USD vào năm 2008, rồi 2,4 tỷ USD vào năm 2009 bất chấp khủng hoảng toàn cầu. Theo trang Wikileaks, tài liệu mật bị rò rỉ của Mỹ cho thấy, năm 2009 là năm mà Australia thay đổi quy định đầu tư nhằm hạn chế hoạt động đầu tư của Trung Quốc vào các công ty khai mỏ của xứ chuột túi. Năm đó, tập đoàn nhôm quốc doanh Chinalco của Trung Quốc đã bị từ chối thâu tóm 18% cổ phần của hãng Rio Tinto của Australia với giá 19,5 tỷ USD. Mới đây, Australia cũng không cho phép hãng viễn thông Huawei của Trung Quốc đấu thầu các hợp đồng mạng băng thông rộng với tổng trị giá 38 tỷ USD do lo ngại an ninh.
3. British Virgin Islands (BVI)
Vốn FDI từ Trung Quốc trong thời gian 2004-2010: 13,9 tỷ USD
Các công ty Trung Quốc đang ngày càng sử dụng nhiều hơn các chi nhánh ở BVI để thực hiện các vụ đầu tư nước ngoài nhằm tránh thuế do BVI được xem là một “thiên đường thuế”. Chỉ có 30.000 dân, nhưng BVI là nơi đăng ký kinh doanh của 457.000 công ty. Nhiều doanh nghiệp lớn của Trung Quốc như China Mobile, Sina, Geely… đều có chi nhánh ở vùng lãnh thổ này. Trước đây, lợi nhuận của các công ty ở BVI không phải nộp thuế cho nhà chức trách Trung Quốc vì các giao dịch của các công ty này được giữ bí mật. Tuy nhiên, vào tháng 12/2009, Trung Quốc và BVI đã ký một thỏa thuận về thông tin thuế, trong đó phía Trung Quốc sẽ được phía BVI cung cấp thông tin về các công ty, tạo cơ sở cho việc đánh thuế. Năm 2009, BVI chiếm 22% trong tổng số 7,3 tỷ USD vốn FDI mà Trung Quốc rót vào khu vực Mỹ Latin.
2. Cayman Islands
Vốn FDI từ Trung Quốc trong thời gian 2004-2010: 27,3 tỷ USD
Vốn FDI của Trung Quốc và Cayman Islands tăng giảm thất thường, lên 7,8 tỷ USD vào năm 2006 nhưng lại giảm còn 3,5 tỷ USD vào năm 2010. Trong số 7,3 tỷ USD vốn FDI Trung Quốc rót vào Mỹ Latin năm 2009, có 73% được đổ vào Cayman Islands. Theo các chuyên gia, phần lớn tiền đầu tư của các công ty nước ngoài vào các “thiên đường thuế” như Cayman Islands hay BVI đều nhằm mục đích tránh thuế. Hoạt động này khiến việc xác định chính xác vốn đầu tư của Trung Quốc ra nước ngoài trở nên khó khăn và cho phép các doanh nghiệp quốc doanh của Trung Quốc che giấu những khoản đầu tư lớn. Giống như BVI, Cayman Islands đã ký thỏa thuận về trao đổi thông tin thuế với Trung Quốc, nhưng thỏa thuận này vẫn chưa có hiệu lực.
1. Hong Kong
Vốn FDI từ Trung Quốc trong thời gian 2004-2010: 139,5 tỷ USD
Không có gì là khó hiểu khi Hồng Kông dẫn đầu danh sách những điểm đến hút vốn FDI của Trung Quốc nhất, bởi lẽ Hồng Kông có vị trí địa lý sát với đại lục, thuế suất thấp, và lại là một vùng lãnh thổ của Trung Quốc. Năm 2007, vốn FDI của Trung Quốc vào Hồng Kông tăng gấp đôi lên 13,7 tỷ USD, từ mức 6,9 tỷ USD trong năm 2006. Cũng trong năm 2007, Trung Quốc bắt đầu cho phép công dân đại lục đầu tư vào thị trường chứng khoán Hồng Kông. Vốn FDI của Trung Quốc vào Hồng Kông đạt đỉnh 38,64 tỷ USD vào năm 2008 trước khi giảm xuống 38,5 tỷ USD vào năm 2010. Hồng Kông hiện là một trung tâm giao dịch quốc tế của đồng Nhân dân tệ. Ngoài ra, các nhà đầu tư bất động sản Trung Quốc cũng rất chuộng mua nhà ở Hồng Kông, chiếm 25% các vụ mua nhà cao cấp ở đây trong năm ngoái.
(Theo Vneconomy)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com