Huế miền đất của xứ thành kinh, nơi chứng kiến bao hưng vong của triều Nguyễn từ đầu thế kỷ XIX – X. Dù có biết bao thay đổi, nhưng Huế vẫn thế, dịu dàng với những khu vườn rợp mát, của dòng Hương giang êm đềm và có cả một làng nghề làm nón bài thơ.
Đến với Huế, mảnh đất được thiên nhiên ban tặng một vẻ đẹp nên thơ như một bức tranh thủy mặc, sơn thủy hữu tình. Ngân vang trong tiếng chuông chùa Thiên mụ là một khoảng không gian rộng mở của dòng Hương giang đang lặng lờ trôi. Trở lại với lịch sử hình thành và phát triển của Huế, theo các nhà sử học, tính từ năm 1306, khi vua Champa dâng 2 Châu Ô, Châu Rí cho nước Đại Việt dưới triều Trần (1225 – 1440) để cầu hôn công chúa Huyền Trân, đến nay Huế đã có ra đời được 700 năm. 700 năm là một chặng đường dài của những đổi thay, nhưng Huế vẫn giữ được cho mình một nét thơ, một nét nhạc như khúc nam ai nam bình đang dịu dàng cất lên từ bến sông Hương, để biết bao du khách phải nhớ, phải thương.
Con người xứ Huế vốn dĩ thông minh, tài hoa và rất cần cù, sáng tạo trong lao động. Từ rất lâu đời, do nhu cầu của cuộc sống của các vương triều phong kiến nhà Nguyễn (kéo dài 143 năm: 1802 – 1945 ) và do sự phân công lao động trong xã hội, vì vậy, nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng trên vùng đất Huế đã được hình thành, phát triển và tồn tại cho đến tận ngày nay. Trong số đó có những làng nón truyền thống như Phủ Cam, Đốc Sơ, Dạ Lê, Kim Long, Tây Hồ và làng nón Bài Thơ.
Có người hỏi rằng, nghề làm nón Huế đã có từ bao giờ? Có lẽ chưa thể có câu trả lời chính xác nhất. Tuy nhiên, theo những ghi chép còn sót lại của Lê Quí Đôn trong “Phủ biên tạp lục”, khi nhận xét về chiếc nón lá xứ Thuận Hóa ở thế kỷ XVI, XVII đã cho chúng ta biết rằng nghề làm nón lá Huế đã có từ khoảng hơn 300 - 400 năm về trước.
Về mặt hình dáng, chất liệu và công dụng, nón bài thơ xứ Huế cũng giống như nón cùng loại của một số địa phương khác trên cả nước. Tuy nhiên, nét đặc thù mang đậm dấu ấn phong cách Huế chính là dáng nón thanh tao mềm mại, màu trắng sáng xanh mát dịu của lá và những hình hoa văn được tạo rất khéo, bố cục cân đối nằm giữa 2 lớp lá, chỉ khi soi ra trước ánh sáng mới có thể nhận thấy được vẻ đẹp đầy thi vị của nó. Ở Huế, chiếc nón không chỉ để che nắng mưa mà còn là một loại phục trang kết hợp cùng tà áo dài màu tím đặc trưng, càng làm cho vẻ đẹp của người phụ nữ thêm uyển chuyển và mềm mại trên từng bước chân thong thả, dịu dàng.
Thoạt trông, chiếc nón lá Huế có vẻ đơn giản như bao chiếc nón khác. Tuy nhiên, để làm được một chiếc nón vừa đẹp vừa nhẹ, bền là cả một nghệ thuật và công phu của những người thợ. Ở mỗi công đoạn đều có sự chuyên môn hóa cao. Từ khâu khai thác vật liệu, gia công lá nón, thiết kế khung, làm vành, sáng tác hoa văn đến khâu nón. Có rất nhiều du khách khi đến Huế tham quan, lúc về không quên mang theo những chiến nón Huế làm quà cho người thân và bè bạn.
Để làm được một chiếc nón bài thơ, phải trải qua rất nhiều công đoạn. Toàn bộ qui trình này, chủ yếu có 3 nhóm việc chính: Chuẩn bị khung và vành nón, xử lý lá nón, khâu và hoàn thiện nón. Trước hết là khâu tạo khung và vành nón. Đây là công việc đòi hỏi người thợ có nhiều kinh nghiệm, cẩn thận và khéo tay. Chiếc khung nón bao gồm 12 thanh gỗ vát mảnh được ghép lại, khớp nhau ở đỉnh, phía dưới khoảng cách đều nhau. Toàn bộ mặt khung hình khum nhẹ. Tùy thuộc vào thợ làm nón đặt loại khung nào thì người thợ sẽ làm loại khung đó. Nhưng tinh tế hơn cả vẫn là khâu làm vành. Vành nón được làm từ thân cây lồ ô. Bộ vành quyết định chủ yếu dáng vẻ chiếc nón. Có người đã nhận xét: “Nón Huế nhẹ, mềm mỏng, trước hết ở cốt cách của bộ vành. 16 vành như 16 vầng trăng được ve thật nhanh, thật tròn, thật nhẵn, thật điệu, sao cho không gợn chút méo mó ngay cả ở chỗ mắt cây”.
Vùng sơn cước của Thừa Thiên Huế dường như là kho thiên nhiên vô tận để khai thác lá nón. Sau khi thợ sơn tràng đưa lá về, lá được tuyển sơ để chuyển sang sấy. Lá nón sấy đạt yêu cầu phải thỏa các điều kiện là lá chính đều, khô vừa, giữ được sắc xanh nhẹ, chưa hoàn toàn ngả sang màu trắng vàng. Đây là công việc vất vả và khá quan trọng, quyết định đến chất lượng của chiếc nón được tạo ra. Sau khi sấy xong, người thợ sẽ đem lá về rãi sương (giữ độ ẩm), ủi và lựa lá. Họ rất thạo trong việc chọn lá đực, lá cái, mặt phải, mặt trái, cắt và rọc sống. Hai mươi chiếc lá đực được xây đầu tiên sẽ nằm ở mặt trong. Tiếp đến là hình hoa văn – bài thơ phủ kín diện tích xung quanh chiếc nón. Lá cái được xây ở ngoài cùng. Ở công đoạn này động tác phải nhẹ nhàng khéo léo, chèn kỹ, đẹp và dằn chắc chắn, giữ cho mặt lá phẳng không xê dịch.
Khâu (chằm) nón là công đoạn quyết định đến sự hình thành và vẻ đẹp của cả chiếc nón. Người thợ sẽ khâu từ trên xuống đến vành 15, cứ 1 cm 3 mũi cước trong suốt. Vành cuối cùng khâu cước trắng, 2 mũi kim cách nhau 2 cm. Đường chằm phải mềm mại, thanh nhẹ, dịu dàng. Bàn tay khéo léo của những nghệ nhân các làng nón đã làm được điều đó bằng tài năng và sự khổ luyện của mình, có khi phải chong đèn thâu đêm, suốt sáng, miệt mài, dường như không biết mỏi là gì. Khâu xong nón, người thợ chỉ còn việc đánh quai, chải dầu. Lớp dầu bóng bằng nhựa thông pha cồn làm cho nón thêm sáng, đẹp và chống thấm nước. Từ đây, chiếc nón bắt đầu cuộc hành trình của mình đến với người tiêu dùng gần - xa.
Vì sao gọi là nón bài thơ? Đó chính là những họa tiết được ghép vào giữa chiếc nón để mỗi khi che nghiêng nón lá trên làn nắng nhẹ, những công trình kiến trúc như chùa Thiên mụ, cầu Tràng Tiền, sông Hương cùng những vần thơ chợt hiện ra, khơi gợi bao cảm xúc trong mỗi người khi nhìn ngắm.
Nghề làm nón ở Huế xuất phát từ nhu cầu của đời sống dân gian. Nón vừa là vật dụng khá tiện lợi, phù hợp với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, giá lại rẻ, vì vậy, nón Huế rất được ưa chuộng. Nón Huế xuất hiện ở mọi nơi, trên cánh đồng lúa chín vàng ươm, ở chốn đền đài lăng tẩm vươn màu thời gian. Ai ai cũng có thể đội nón Huế. Từ cụ già đến em bé, hướng dẫn viên và cả những du khách nước ngoài. Ai ai cũng đều yêu nón Huế. Không chỉ vì vẻ đẹp nên thơ của nón mà còn vì tình yêu của du khách dành cho Huế mến, Huế yêu.
Từ bản Tả Phìn đến thị trấn Sa Pa (Lào Cai) là đoạn đường đèo ngoạn mục với cảnh quan diễm lệ. Những thửa ruộng bậc thang xanh xanh với nào lúa nước, su su chạy dài ngút mắt bên dưới lũng sâu.
ừ thị trấn Kiên Lương (Kiên Giang) đi Mo So có một đoạn đường đầu tiên ở nước ta được đổ bê tông xi măng thay vì trải nhựa như thường thấy; rồi thích thú chứng kiến những ngọn núi đá vôi chập chùng chạy ngược bên khung cửa xe. Theo con đường nhựa nổi lên giữa những đồng nước chua phèn lưa thưa cây cỏ vàng hoe màu nắng, Mo So rồi cũng hiện ra trước mắt.
Ở trung tâm thành phố Cần Thơ có những ngôi chùa cổ ra đời hàng trăm năm trước, không chỉ phục vụ nhu cầu tín ngưỡng mà còn chữa bệnh cứu người, tế độ chúng sinh. Hãy cùng chúng tôi ghé thăm chùa Hiệu Minh (Đàn Tiên Cái Khế) - một ngôi chùa như vậy.
Những ngày này, khi lúa, ngô đã “nằm yên” trong nhà, cũng là lúc đồng bào dân tộc thiểu số Chơro ở Đồng Nai tổ chức lễ hội Sayangva (ăn thần lúa).
Cây tre đã gắn bó với người Việt hàng ngàn đời nay. Tre là nguyên liệu được người Việt khai thác tối đa sự hữu dụng tưởng như vô hạn; từ những vật dụng gần gũi, thiết thân trong đời sống thường nhật cho đến khí cụ chiến đấu, bảo vệ quê hương. Hình ảnh lũy tre thanh bình, thơ mộng trong thi ca, trong bao chuyện tình lãng mạn và cả trong huyền sử Thánh Gióng.
Người Dao Tiền có truyền thống in hoa văn bằng sáp ong trên vải, đặc biệt là trên trang phục phụ nữ. Muốn tạo hoa văn gì người ta dùng dụng cụ nhúng vào sáp ong nóng chảy rồi in lên vải. Sáp ong khô đem nhuộm chàm nhiều lần, nhờ có sáp ong kết dính nên các họa tiết hoa văn không bị ngấm chàm. Khi đã nhuộm được mầu chàm ưng ý họ nhúng vải vào nước sôi, sáp ong tan ra sẽ hiện lên các hoa văn có màu xanh nhạt trên nền chàm truyền thống.
Một nơi mà mảnh sành ken dày trên mặt đất và trong lòng đất, nên có tên là Gò Sành, nằm trên đất làng Ðông Phong, thôn Phụ Quang, xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn, Bình Ðịnh, cách thành phố Quy Nhơn 30 km về hướng tây bắc. Ðấy là xứ sở của gốm Chăm. Ngoài gốm Chăm ở Ninh Thuận, gốm Bàu Trúc, dân dã, không men, mịn màng một mầu đất nâu sẫm lấp lánh những hạt vàng li ti từ cát sa huỳnh, ít người biết đến một dòng gốm men sang trọng ở thành Ðồ Bàn xưa, nơi vương triều Vijaỵa tồn tại suốt năm thế kỷ từ XI đến XV.
Không chỉ nổi tiếng với “một điểm đến hai di sản”, Quảng Nam còn là mảnh đất chứa đựng biết nhiều điều thú vị, trong đó các làng nghề truyền thống có hàng trăm năm tuổi như làng đúc đồng Phước Kiều là một ví dụ.
Với người Việt cổ xưa, trò chơi này thường dành cho giới nữ, con nhà quý phái, xưa kia là các mỵ nương, con gái Lạc hầu, Lạc tướng. Đối với các dân tộc Mường, Tày, H’mông, Thái... ném còn là trò tín ngưỡng hấp dẫn nhất của trai gái trong dịp hội xuân.
Những ngôi nhà gỗ thấp thoáng, hoa đào nở trong sương khói mờ ảo, hình ảnh Tam Đảo do bạn đọc Nguyễn Tiến Thành ghi lại ngày 21/2.
Thuở nhỏ, mỗi lần đọc câu thơ “Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam/Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng” của Tố Hữu, tôi luôn cố gắng mường tượng về những địa danh, những loài hoa đặc trưng miền Tây Bắc, để rồi chỉ mong một ngày nào đó được đi giữa lòng Điện Biên, khám phá vùng đất có bề dày lịch sử, văn hóa này.
Chuyến tàu Super Dong khởi hành lúc 8 giờ từ Rạch Giá đưa chúng tôi ra đảo Phú Quốc sau chưa đầy 3 giờ đồng hồ. Gió nồng nhiệt hất tung mái tóc cô gái đất liền sảng khoái đứng ở boong tàu. Nắng cũng nồng nhiệt... bám lên làn da mặn mòi. Và người xứ đảo, sao mà nồng nhiệt.
Lễ hội đền Ghềnh hằng năm mở từ ngày mồng một tháng Tám âm lịch đến ngày mười hai là chính hội. Đền Ghềnh nằm ở sát bờ sông Hồng cách đầu cầu Long Biên chừng hơn cây số. Ai đi trẩy hội đền Ghềnh nhiều lần hay mới đi lần đầu đều nhận thấy rằng: Hội đền Ghềnh cũng là hội của bánh đa tráng.
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
“6 năm qua, chúng tôi phải vật lộn với khủng hoảng vận tải biển, kinh tế suy thoái, những khó khăn do căng thẳng tại Biển đông… Thực sự chúng tôi sắp hết hơi rồi!” - ông Vũ Đức Then - Phó Chủ tịch Hội vận tải biển Diêm Điền - Thái Bình bày tỏ.
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”