Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Bốn nguy cơ đe dọa hệ thống ngân hàng Việt Nam!

 Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay có 4 rủi ro: thanh khoản, sai lệch cơ cấu thời hạn, sai lệch cơ cấu đồng tiền và nợ xấu. Tuỳ thời điểm mà rủi ro nào tăng lên, nhưng tất cả các nguy cơ đều đang tồn tại. 

 Ngân hàng Việt Nam

TS. Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã nhấn mạnh điều này trong cuộc trao đổi với báo chí về chủ đề nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
 
TS. Võ Trí Thành cho rằng,  đó chính là hệ lụy của yếu kém về những nền tảng kinh tế vĩ mô, mức độ đô la hóa cao, biến động khó lường của môi trường kinh tế trong và ngoài nước, năng lực hạn chế trong quản trị của doanh nghiệp... Đặc biệt, hệ thống tài chính - ngân hàng mặc dù đã "tinh xảo" hơn, nhưng quản trị rủi ro và năng lực giám sát vẫn còn nhiều điều phải hoàn thiện.
 
Theo TS. Võ Trí Thành, để ngăn ngừa nợ xấu và rủi ro khác gia tăng, trước hết cần phải nhanh chóng nâng cao nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các định chế tài chính và hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam, trong đó có NHNN. Đồng thời, cần xây dựng hệ thống cảnh báo sớm cùng những phương án xử lý nếu xảy ra sự cố "đổ vỡ" nào đó trong hệ thống tài chính - ngân hàng, để hạn chế thiệt hại của những bên trực tiếp liên quan và đặc biệt là giảm thiểu rủi ro mang tính hệ thống do tính lan toả của rủi ro tài chính.
 
Hậu quả của sự cố đổ vỡ là bản thân NHTM, những doanh nghiệp đang làm ăn, cả tốt và xấu, với ngân hàng đều thiệt hại. Người gửi tiền, dù được bảo hiểm, cũng thường phải chịu "mất mát", hoặc do mức độ bảo hiểm tiền gửi hạn chế, hoặc do chi phí về thời gian. Tuy nhiên, thiệt hại lớn nhất là nếu không được xử lý kịp thời, rủi ro có tính hệ thống sẽ gia tăng, dẫn đến khủng hoảng tài chính, kinh tế. Khi đó toàn bộ nền kinh tế và xã hội sẽ phải chịu thiệt hại rất lớn.
 
Trên thực tế, khi định chế tài chính, NHTM sụp đổ, Chính phủ thường giơ tay ra cứu. Đây không phải là sự ưu ái, mà chỉ để tránh một sự sụp đổ lớn hơn đối với cả một hệ thống, một nền kinh tế. Chính câu chuyện này cũng dẫn đến một điều là "rủi ro đạo đức". Một số định chế tài chính, NHTM có thể "làm ăn liều", bởi họ cho rằng, kiểu gì Chính phủ cũng phải cứu khi họ có vấn đề, bởi nếu không cả hệ thống sụp đổ. Do vậy, quay lại câu chuyện đã bàn là phải tăng cường giám sát, hạn chế "rủi ro đạo đức".
 
TS. Võ Trí Thành cho rằng, chúng ta cần minh bạch thông tin, kể cả thông tin có phần nhạy cảm như thông tin nợ xấu. Đồng thời, phải hiểu thế nào là minh bạch? Minh bạch không có nghĩa là các quốc gia, các định chế tài chính không có vấn đề bí mật. Quốc gia nào, định chế tài chính nào cũng có những bí mật riêng. Minh bạch không hoàn toàn có nghĩa là phải công bố mọi thứ. Tuy nhiên, minh bạch phải đảm bảo 2 điều kiện: Một là, thị trường và công chúng phải đủ thông tin ở mức nào đó để có nhận định không sai lệch, khái quát được tình hình. Hai là, khi đã công bố thì không thể hiểu theo nhiều nghĩa.
 
Lưu ý là ngay cả trong các nền kinh tế được xem là có độ minh bạch cao thì lựa chọn cách công bố thông tin, chẳng hạn về mục tiêu chính sách, cũng có thể khác nhau. Ví dụ, mục tiêu (trung gian) của chính sách tiền tệ Singapore là tỷ giá, nhưng NHTW không nêu rõ con số tỷ giá mục tiêu, mặc dù có thể nhấn mạnh tầm quan trọng mục tiêu đó đối với khả năng cạnh tranh, xuất khẩu hay lạm phát, tùy thời điểm. Vấn đề là đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của chính sách, nhưng nói như vậy không có nghĩa Singapore không minh bạch. Điều cũng không kém phần quan trọng là trong nhiều trường hợp, cách lựa chọn công bố thông tin của cơ quan công quyền còn là nghệ thuật cân bằng giữa những khía cạnh kỹ trị và chính trị.
 
Theo TS. Võ Trí Thành, nợ xấu của Việt Nam không phải là câu chuyện mới nổi lên. Giữa những năm 1990, tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam dần lên cao và đạt trên 13% vào cuối những năm 1990. Khi đó, Việt Nam cùng với IMF có một chương trình cải tổ hệ thống NHTM, đưa một số ngân hàng vào diện giám sát đặc biệt và cải cách DNNN.
 
Đến cuối năm 2010, tỷ lệ nợ xấu theo cách tính của Việt Nam là 2,5%. Còn nếu tính toàn bộ dư nợ của hệ thống ngân hàng đối với Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) là 0,7% thì nợ xấu của năm 2010 vào khoảng 3,2%. Trong môi trường hiện nay, xu hướng nợ xấu và nợ quá hạn tăng lên là điều có thể nhìn thấy, bởi môi trường kinh doanh rất khó khăn trong điều kiện chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt, đầu tư công giảm, chi phí đầu vào tăng.
 
Theo NHNN, hiện tại nợ xấu của hệ thống ngân hàng xung quanh mức 3% và mục tiêu cơ quan này đề ra cho năm nay là trường hợp xấu nhất thì cũng chỉ dưới 5%. Bản thân mục tiêu đề ra như vậy cũng cho thấy vấn đề nợ xấu có chiều hướng tiếp tục tăng.
 
TS. Võ Trí Thành cho rằng, nếu chỉ nhìn con số tổng thể đó thì không có gì là ghê gớm, nhưng đi sâu vào phân tích thì thực sự có không ít vấn đề.
 
Thứ nhất, rủi ro của hệ thống tài chính và ngân hàng mang tính hệ thống, nghĩa là một đổ vỡ nào đó nếu không được xử lý tốt sẽ khiến cả hệ thống bị ảnh hưởng theo. Cho nên, bên cạnh con số trung bình đó, phải nhìn con số của từng định chế tài chính riêng biệt. Con số trung bình chưa nói lên được nhiều điều. Nếu định chế tài chính lớn mà nợ xấu lớn thì mức công phá, lan toả của sự rủi ro lớn, còn nếu định chế nhỏ thì dễ "thoát hiểm" hơn. Đằng sau đó là hệ thống cảnh báo, khắc phục như thế nào thì Việt Nam cũng ít nhiều đã có kinh nghiệm, cũng như những bài học của nhiều nước trong các cuộc khủng hoảng tài chính.
 
Thứ hai, gắn với rủi ro liên quan đến bất động sản, vì đó thường là các khoản vay lớn và tính lành mạnh của NHTM phụ thuộc vào sự lên dốc và xuống dốc của bất động sản, cũng như tài sản được thế chấp vào ngân hàng. Cái đẹp, cái tốt hay cái xấu trong bản cân đối tài sản NHTM phụ thuộc không nhỏ vào biến động của thị trường bất động sản.
 
Thứ ba, đặc thù ở Việt Nam là mối quan hệ giữa tín dụng và DNNN. Mặc dù tỷ trọng cho vay đối với khu vực này nhỏ dần, từ 70 - 80% đầu những năm 1990 nay còn 30 - 35% trong tổng tín dụng, nhưng vẫn là con số lớn. Những yếu kém của khu vực DNNN, sự đổ vỡ của Vinashin, nguy cơ rủi ro của một vài tập đoàn sau khi được kiểm toán là những mầm mống chứa đựng rủi ro tín dụng, nợ xấu tăng của hệ thống NHTM.
 
Thứ tư, độ chính xác và minh bạch thông tin. Ví dụ, con số nợ xấu/nợ quá hạn từ trước đến nay vẫn nói là theo thông lệ Việt Nam. Thông lệ này đang dần được hoàn thiện theo chuẩn mực quốc tế, tuy nhiên vẫn còn khoảng cách khá lớn. Nhiều chuyên gia cho rằng, nếu tính theo đúng chuẩn quốc tế thì tỷ lệ nợ xấu và quá hạn của Việt Nam sẽ cao gấp khoảng 3 lần con số được công bố. Điều quan trọng nữa, như đã nói ở trên, là con số đó ở từng định chế tài chính là bao nhiêu. Nói chung, trong số các rủi ro của hệ thống NHTM Việt Nam, nợ quá hạn và nợ xấu vẫn là một rủi ro tiềm ẩn và phải hết sức quan tâm.
---------------------------------

Đọc thêm: Bộ ba tiềm ẩn… rủi ro vĩ mô?
 
Bất cập tiền tệ, nợ xấu ngân hàng và nợ công tăng nhanh đang trở thành bộ ba tiềm ẩn rủi ro vĩ mô trong thời gian tới. 
 
TS Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia đã cảnh báo như vậy khi liệt kê một số bất cập mà chính sách tiền tệ mang lại trong phát biểu tại Hội thảo Bất ổn kinh tế vĩ mô và tác động phúc lợi.
 
Theo TS Lê Xuân Nghĩa, bất cập mà chính sách tiền tệ mang lại là: lạm dụng hành chính; hệ thống ngân hàng "méo mó khủng khiếp" đến không còn đường cong lãi suất; các tổ chức tín dụng có vẻ “thích” công cụ hành chính, không thích công cụ thị trường…
 
TS Lê Xuân Nghĩa cho rằng việc áp trần lãi suất huy động là biện pháp hành chính và không thực sự cần thiết. Bởi lẽ, Ngân hàng Trung ương không cần quan tâm đến lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại mà chỉ nên quan tâm đến lãi suất liên ngân hàng trên thị trường mở.
 
Liên ngân hàng ổn định, thị trường sẽ ổn định. Việc của Ngân hàng Trung ương là giữ cho thị trường liên ngân hàng ổn định. Việt Nam dường như đang xử lý ngọn, bỏ qua thị trường liên ngân hàng.
 
TS Lê Xuân Nghĩa, cũng cho rằng việc áp trần lãi suất huy động, dù là biện pháp hành chính nhưng được các ngân hàng thương mại “thích” hơn vì dễ lách. Trong khi các biện pháp mạnh theo thị trường như tăng dự trữ bắt buộc không được các tổ chức này đồng tình vì quá minh bạch và khó tránh né.
 
Theo TS Lê Xuân Nghĩa, hệ thống ngân hàng đang chịu áp lực lớn từ các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước hút vốn lớn nhưng làm ăn kém hiệu quả và chưa có cơ chế kiểm soát hữu hiệu, trở thành nơi tích tụ nợ xấu cho chính bản thân họ và các ngân hàng.
 
Cộng hưởng thêm vào những rủi ro trên là nợ công tăng nhanh trong thời gian gần đây. Chỉ trong vòng 3 năm, khối nợ đã tăng bằng 7 - 8 năm trước đó với lãi suất ngày càng cao và kỳ hạn ngày càng ngắn.
 
Trong khi đó, tình trạng USD hóa và vàng hóa tiếp tục diễn biến phức tạp, dân chúng có thể dễ dàng “nhảy” từ tiền sang vàng, ngoại tệ ngay trong hệ thống ngân hàng và ngoài ngân hàng, khiến cho tính toán cầu tiền thêm phức tạp...
Đây là nguy cơ trong những năm tới chứ không phải ra khỏi giai đoạn khó khăn này là “sạch sẽ như chùi.
 
Tham luận của Phó thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình tại hội thảo cho biết lãi suất thị trường chịu sức ép và biến động tăng trong 5 tháng đầu năm, do lạm phát cao, diễn biến kinh tế vĩ mô chưa ổn định, nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội vẫn ở mức cao gây sức ép đối với tín dụng ngân hàng.
 
Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng kiểm soát lạm phát. Và từ đầu tháng 6, sức ép tăng lãi suất thị trường giảm dần theo diễn biến lạm phát.
 
Theo Phó thống đốc Nguyễn Văn Bình, lãi suất huy động VND hiện ở mức  bình quân 15,15%/năm, tăng 3%/năm so với cuối năm 2010, các tổ chức tín dụng cạnh tranh bằng công cụ lãi suất để giữ thị phần huy động vốn thông qua việc thỏa thuận trả thêm chi phí cho người gửi tiền.
 
Với mức bình quân nói trên, lãi suất huy động VND đã vượt trần quy định 14%/năm của Ngân hàng Nhà nước áp dụng từ tháng 3/2011 đến nay (theo Thông tư số 02/2011/TT-NHNN).
 
Bài phát biểu của Phó thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng đề cập nguy cơ rủi ro tín dụng và nợ xấu có xu hướng gia tăng, dù vẫn dưới 3%, do thị trường bất động sản biến động thất thường, tình trạng đầu cơ còn phổ biến, lãi suất vay tổ chức tín dụng tăng cao.
 
Cụ thể, dư nợ để đầu tư kinh doanh bất động sản là 220,787 tỷ đồng, giảm 6,16% so với cuối năm 2010, chiếm 9,4% dư nợ tín dụng toàn hệ thống; tỷ lệ nợ xấu là 2,37%. Trong đó, dư nợ cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng khá lớn, tới 77%, trong khi vốn huy động của cá tổ chức tín dụng chủ yếu là ngắn hạn, nên có thể phát sinh rủi ro thanh khoản.
--------------------------------------------------------
Minh Giang// Theo Tầm Nhìn
 

 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • TS. Phạm Thế Anh: Xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam
  • Lạm phát gia tăng: nỗi lo không chỉ riêng của Việt Nam
  • Chiến tranh tiền tệ Mỹ -Trung: Âm mưu thiết lập trật tự thế giới mới ?
  • Chính sách tiền tệ: thị trường tiền tệ liệu có rối loạn ?
  • Chính sách tiền tệ: Điều chỉnh tỷ giá hối đoái và những tác động
  • Dự báo xu hướng vận động thị trường tài chính 2010
  • Lãi suất cho vay: Rủi ro pháp lý và sức chịu đựng của doanh nghiệp
  • Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam "lách" luật kiếm siêu lợi nhuận?
  • PGS.TS Trần Hoàng Ngân: 'Việt Nam không nên phá giá tiền đồng'
  • Xu hướng thị trường nhà đất 2010: Nhận định từ các chuyên gia
  • Đồng USD sẽ tăng giá trở lại trong năm 2010
  • Đầu tư vào nhà đất vẫn là số một!