Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Giảm lãi suất và những tác động xấu

Ngày 19/12 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã ký các quyết định về việc điều chỉnh giảm lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Không ai có thể phủ nhận những tác động tốt có thể đem lại cho nền kinh tế từ các quyết định này, mà nhiều bài viết trên VnEconomy đã phân tích. Tuy nhiên, tác giả lại muốn đề cập đến những tác động xấu có thể xảy ra, với hy vọng rằng các góc nhìn đa chiều sẽ góp phần giúp nhà quản lý lường trước những tác động không mong muốn, qua đó thúc đẩy sự phát triển ổn định của nền kinh tế.

Áp lực lỗ, tăng nợ xấu, khó cho vay linh hoạt

Theo người viết, những tác động xấu của các quyết định hôm 19/12/2008 có thể kể đến trước hết là áp lực lỗ đối với hệ thống ngân hàng.

Trong thời kỳ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, các ngân hàng đã phải chấp nhận huy động VND lãi suất cao để đảm bảo thanh khoản và lợi ích của người gửi tiền. Nay lãi suất trần cho vay giảm nhanh và mạnh (lần này từ 15%/năm xuống 12,75%/năm) chắc chắn sẽ gây áp lực thua lỗ lớn.

Thứ hai là nguy cơ tăng nợ xấu. Việc giảm dự trữ bắt buộc giúp các ngân hàng có nhiều tiền hơn để sử dụng. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại giảm, khiến việc xin viện trợ từ Ngân hàng Nhà nước trở nên rẻ hơn.

Lãi suất tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng đồng Việt Nam dưới hình thức bắt buộc giảm từ 13%/năm xuống 4,5%/năm cũng đồng nghĩa với việc khuyến khích các ngân hàng rút tiền mua tín phiếu trước hạn. Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng giảm từ 9%/năm xuống 8,5%/năm (như vậy lợi suất từ khoản dự trữ bắt buộc bị giảm xuống).

Tất cả những điều đó có thể dẫn đến tình trạng các ngân hàng các vay một cách tràn lan, coi nhẹ việc thẩm định, dẫn đến cho vay cả những khách hàng không có khả năng trả nợ (nhất là khi đã phải chịu áp lực lỗ kể trên).

Thứ ba, với mức lãi suất cho vay trần, các ngân hàng không thể áp dụng lãi suất cho vay linh hoạt với từng khách hàng.

Chính sách lãi suất trần buộc các ngân hàng phải cho vay các khách hàng có mức độ rủi ro khác nhau với cùng lãi suất không vượt quá 12,5%. Chính sách này vô tình khiến người vay, trong một số trường hợp, có thể khó tiếp cận vốn, trong khi ngân hàng vẫn sẵn sàng cho khách hàng vay nếu mức lãi suất cao hơn lãi suất trần (tương ứng với độ rủi ro, thời hạn vay của khách…).

Đồng Việt Nam kém hấp dẫn hơn

Thứ tư, việc giảm lãi suất cơ bản khiến đồng Việt Nam trở nên kém hấp dẫn hơn. Trong khi đó, thị trường ngoại hối vẫn tồn tại những bất ổn. Bên cạnh những biểu hiện thường được nhắc đến nhiều như giá mua bán USD của các ngân hàng đều niêm yết kịch trần, giá USD trên thị trường tự do trồi sụt thất thường thì còn những biểu hiện khác rất đáng được lưu tâm.

Trước hết, đó là hiện tượng trong khi các ngân hàng chỉ cho vay được khoảng 50-60% so với lượng USD huy động được nhưng lãi suất USD vẫn cao. Có ý kiến cho rằng vì các ngân hàng sợ giảm lãi suất sẽ mất khách, không đạt chỉ tiêu huy động. Tuy nhiên, đó chỉ là bề nổi.

Phần chìm của vấn đề, có lẽ là ở chỗ lượng USD huy động không đơn thuần chỉ là cho vay, mà hiện nay còn đang gánh một "trách nhiệm" khác là bù đắp lượng ngoại tệ đã bán cho khách hàng nhưng không mua được để bù đắp (tức là các ngân hàng đang dùng USD đi vay để bán cho khách hàng còn bản thân ngân hàng thì không có tiền - trạng thái âm ngoại tệ).

Hơn nữa, trên thị trường liên ngân hàng, có những thời điểm dường như không thể thực hiện được việc mua ngoại tệ bằng đồng Việt Nam, cho dù những ngoại tệ đó không bị khống chế bởi giá trần hay sàn của Ngân hàng Nhà nước. Điều này phần nào cho thấy tính chuyển đổi của đồng Việt Nam đang giảm sút. Thông thường, khả năng chuyển đổi của VND phụ thuộc vào nguồn USD của các ngân hàng do USD mới có khả năng chuyển đổi trên thị trường quốc tế. Nhưng nay, vì khan hiếm USD nên khả năng chuyển đổi của VND cũng giảm theo.

Thứ năm, việc ra các quyết định có mục đích tăng mức cung tiền cho nền kinh tế nếu không cẩn thận có thể dẫn đến lạm phát đình đốn (stagflation) hoặc tăng trưởng kinh tế về số lượng nhưng không đảm bảo về chất lượng.

( theo vneconomy )

  • Khi khách hàng tốt... không chịu vay
  • Nóng tỷ giá “chợ đen”, khi nào can thiệp?
  • Đường đi mới của tỉ giá và lãi suất
  • Căng thẳng tỷ giá chỉ mang tính nhất thời
  • Chính sách tiền tệ: Món ngon khó nấu!
  • Ngân hàng Nhà nước tăng mạnh tỷ giá USD/VND
  • Thị trường tiền tệ châu Á ngày 24/12: USD giảm giá
  • Thị trường tiền tệ ổn định sau khi lãi suất cơ bản giảm
  • Ngày mai điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng 3%
  • Vào năm 2009: Lãi suất cho vay sẽ ở mức 6-7,5%/năm?
  • Lãi suất có cần giảm thêm?
  • Trung Quốc tiếp tục hạ lãi suất
  • Lãi suất giảm: Tiền nhàn rỗi có dấu hiệu chuyển hướng
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • TS. Phạm Thế Anh: Xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam
  • Lạm phát gia tăng: nỗi lo không chỉ riêng của Việt Nam
  • Chiến tranh tiền tệ Mỹ -Trung: Âm mưu thiết lập trật tự thế giới mới ?
  • Chính sách tiền tệ: thị trường tiền tệ liệu có rối loạn ?
  • Chính sách tiền tệ: Điều chỉnh tỷ giá hối đoái và những tác động
  • Dự báo xu hướng vận động thị trường tài chính 2010
  • Lãi suất cho vay: Rủi ro pháp lý và sức chịu đựng của doanh nghiệp
  • Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam "lách" luật kiếm siêu lợi nhuận?
  • PGS.TS Trần Hoàng Ngân: 'Việt Nam không nên phá giá tiền đồng'
  • Xu hướng thị trường nhà đất 2010: Nhận định từ các chuyên gia
  • Đồng USD sẽ tăng giá trở lại trong năm 2010
  • Đầu tư vào nhà đất vẫn là số một!