Năm 2008, xuất khẩu của nước ta xấp xỉ bằng 80% GDP, điều này chứng tỏ xuất khẩu có vị trí quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, hiện nay những nền kinh tế lớn nhất là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản là những thị trường chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại đang lâm vào suy thoái, trên 40% là châu Á và châu Đại Dương, cũng là những khu vực chịu tác động mạnh của khủng hoảng, số còn lại là khu vực châu Phi và Trung đông, khu vực chịu tác động ít hơn nhưng kim ngạch xuất khẩu của nước ta vào khu vực thị trường còn nhỏ.
Nhớ lại thời kỳ sau khủng hoảng kinh tế Đông Á 1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu Việt Nam giảm sút nghiêm trọng. Tuy nhiên, khủng hoảng chỉ diễn ra ở khu vực Đông Á và chủ yếu là Đông Nam Á, và một số nền kinh tế như Hàn Quốc, Hồng Kông. Lần này, khủng hoảng nghiêm trọng và lan rộng hơn rất nhiều, mức độ hội nhập của nền kinh tế nước ta cũng sâu hơn, nên tác động của khủng hoảng là lớn hơn.
Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay cần nỗ lực phấn đấu để hạn chế sụt giảm mạnh. Trên phạm vi cả nước, nên coi chỉ tiêu xuất khẩu là mục tiêu định hướng và là căn cứ để tính toán các chỉ tiêu vĩ mô khác như tốc độ tăng GDP, cán cân vãng lai và cán cân tổng thể của nền kinh tế. Do đó, cần có giải pháp phù hợp để đẩy mạnh xuất khẩu, chưa nên đặt vấn đề điều chỉnh chỉ tiêu. Tuy nhiên, đối với từng doanh nghiệp lại cần có sự điều chỉnh hợp lý.
Cạnh tranh ngày càng gay gắt và diễn ra ở nhiều tiêu chí cũng như nhiều bình diện khác nhau nhưng trong khủng hoảng, cạnh tranh về giá sẽ là gay gắt nhất, đặc biệt là khi thu nhập dân cư, doanh nghiệp và cả thu nhập quốc gia bị giảm, người ta phải tìm mua các hàng hoá phù hợp với túi tiền đang bị nhỏ đi của mình, hàng càng nhiều tiền, càng ít người mua. Cạnh tranh trên thị trường nước ngoài đương nhiên là rất gay gắt vì nước nào cũng muốn tăng xuất khẩu để duy trì sản xuất, bảo vệ việc làm và ngăn chặn suy thoái.
Năm 2009, cạnh tranh trên thị trường nội địa dự báo cũng sẽ quyết liệt hơn, nhất là khi phải mở cửa dịch vụ phân phối theo cam kết WTO. Dự báo, hàng Trung Quốc sẽ đổ bộ vào Việt Nam, nhất là khi các doanh nghiệp nước ngoài có quyền lập cơ sở phân phói để bán hàng tại Việt Nam và khủng hoảng toàn cầu cũng tác động khá mạnh đến Trung Quốc.
Dự báo, năm 2009 thách thức sẽ là rất lớn đối với ngành thương mại nói chung và đối với từng doanh nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều cơ hội để doanh nghiệp có thể tận dụng, đó là:
Lãi suất tín dụng thấp hơn và sẽ còn được tiếp tục giảm xuống, điều kiện tiếp cận tín dụng cũng dễ hơn do thanh khoản của hệ thống ngân hàng tốt hơn và có hai cơ chế mới được ban hành: cơ chế bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ và cơ chế lãi suất tín dụng thoả thuận đối với những dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Hai cơ chế này giúp cho nhiều đối tượng được tiếp cận với nguồn tín dụng để phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh.
Chính phủ mới quyết định nhiều chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp. Theo đó, áp dụng nhiều chính sách miễn, giảm hoãn, giãn thời gian nộp thuế… hướng vào các doanh nghiệp sản xuất, sử dụng nhiều lao động, tạo ra nhiều việc làm.
Chính phủ chủ trương kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng để ngăn chặn suy giảm tăng trưởng kinh tế, ngoài khoản tiền gần 17.000 tỉ đồng, Chính phủ tiếp tục phát hành trái phiếu để đầu tư vào xây dựng kết cấu hạ tầng, kể cả kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp, nông thôn, các công trình y tế, giáo dục, nhà ở xã hội.
Như vậy, năm 2009 không chỉ có thách thức, dù thách thức là gay gắt. Cùng với thách thức chúng ta cũng có nhiều cơ hội, trong đó có cơ hội mà nhiều nước không có là môi trường chính trị xã hội ổn định, tiềm năng tăng trưởng của đất nước trong trung và dài hạn là rất sáng sủa, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn coi Việt Nam là điểm đến an toàn và triển vọng cho đầu tư của họ.
Để tận dụng cơ hội, đương đầu và vượt qua thách thức, vấn đề đặt ra hiện nay là cần nhận thức rõ trong tình hình hiện nay. Cạnh tranh về giá là nội dung cạnh tranh quyết liệt nhất, do vậy phải coi yêu cầu giảm giá thành và phí lưu thông là vấn đề quan trọng sống còn, phải rà soát lại từng công đoạn trong quá trình sản xuất lưu thông, triệt để tiết kiệm chi phí nguyên liệu, năng lượng và các chi phí quản lý khác, thiết lập những quy trình sản xuất, những phương tứhc bảo đảm hậu cần vận tải và công nghệ quản lý theo những “đường găng” mới. Làm tốt điều này chẳng những đối phó tốt hơn với thách thức trước mắt mà còn tạo ra một quy trình sản xuất, quản lý tiến bộ và tiết kiệm, bảo đảm cho doanh nghiệp nâng cao năng suất và hiệu quả.
Ngoài ra, việc phát triển các thị trường mới trong đó có thị trường châu Phi- Trung Đông và thị trường Mỹ Latinh là những thị trường rất tiềm năng của hàng hoá Việt Nam. Phân lớp thị trường, xác định cho đúng đối tượng khách hàng mà doanh nghiệp sẽ hướng tới, phù hợp với lợi thế và khả năng của mình.
Cạnh tranh sẽ tạo ra sự phù hợp và bản sắc riêng của mình chứ không phải là tạo ra cái tốt nhất. Cái tốt nhất thường kèm theo giá cao nhất và như vậy phổ tiêu dùng rất hẹp, nhất là trong điều kiện thất nghiệp tăng, thu nhập giảm như hiện nay; và vì giá tốt nhất không phải doanh nghiệp nào cũng làm được.
Vì vậy, cần có sự lựa chọn phù hợp và khi đã lựa chọn được sản phẩm phù hợp thì cố gắng tạo ra bản sắc riêng của mình. Đây không chỉ là yêu cầu của thời khủng hoảng mà còn là yêu cầu lâu dài, nhưng trong khủng hoảng lại càng cần thiết.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Trong bối cảnh kinh tế tiếp tục khó khăn, diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro, Hiệp hội Rau quả Việt Nam đã đưa ra dự báo, nhu cầu tiêu thụ rau quả thế giới tiếp tục tăng từ 3,5-5% và ngành rau quả đặt mục tiêu xuất khẩu đạt 1 tỷ USD trong năm 2013.
Gần đây, nhiều lô hàng chè của Việt Nam xuất khẩu sang các nước châu Âu EU đã bị trả về do phát hiện có chứa các chất Acetamiprid và Imidacloprid. Đây là 2 chất thuộc danh mục 02, theo lộ trình sẽ bị đưa ra khỏi danh mục vào tháng 2/2015.
Trong khi các nền kinh tế lớn ở châu Âu bao gồm cả Đức, Pháp và Italy đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng nợ công khu vực đồng tiền chung euro, kinh tế Thụy Sĩ trong năm qua vẫn phát triển với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm 2012 đạt khoảng 422 tỷ USD.
TạI hội nghị tổng kết tình hình năm 2008 và kế hoạch năm 2009, Bộ Công Thương đề ra mục tiêu năm 2009 phấn đấu xuất khẩu đạt 71 tỉ USD, tăng 13% so với năm 2008.
Suy thoái kinh tế thế giới có thể sẽ tác động tiêu cực đến kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2009. Tuy tổng sản lượng thủy sản năm 2008 ước đạt 4,58 triệu tấn, tăng 9,2% so với năm 2007, mức cao nhất từ trước tới nhưng theo dự báo của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep), kim ngạch tăng trưởng năm 2009 sẽ giảm khoảng 15-20 % so với năm 2008.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Bộ Công Thương cùng chung dự báo về tình hình khan hiếm trên thị trường lúa gạo thế giới trong năm 2009.
Nhiều ý kiến ví von thị trường năm 2008 như một cơ thể phát quá nhiều bệnh: có thời điểm giá cả bừng bừng "sốt nóng" rồi sau đó lại đột ngột chuyển sang "sốt lạnh".
Xuất khẩu đang có hướng chuyển động mới để ứng phó với khó khăn do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế tại các thị trường truyền thống
Theo phóng viên TTXVN tại Seoul, trong năm nay, kim ngạch buôn bán song phương giữa Việt Nam và Hàn Quốc đạt gần 10 tỷ USD, cơ bản hoàn thành mục tiêu hai nước đặt ra cho năm 2010.
Vấn đề là các doanh nghiệp (DN) bán lẻ trong nước cần nhìn nhận một cách khách quan, không quá lo lắng về sức ép, nhưng không được phép chủ quan để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, hoạt động hiệu quả.
Khi năm 2008 khép lại với kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 62 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007 (mức tăng cao nhất trong 4 năm trở lại đây), thì việc hạ mục tiêu phấn đấu xuống 13% trong năm 2009 là bước điều chỉnh nhằm thích ứng với thực tế.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....