Một năm có những kết quả ấn tượng, nhưng những khó khăn cũng đã lộ diện và chuyển tiếp cho năm 2009.
Năm 2008, hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vượt qua nhiều biến động về thị trường, giá cả, khó khăn của những rào cản thương mại, tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu… Đi cùng với đó là nhiều thay đổi trong cơ chế điều hành, hoạch định chính sách.
VnEconomy xin điểm lại những nét nổi bật của hoạt động xuất nhập khẩu trong năm đầy biến động này.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu ấn tượng
Theo số liệu ước tính của Bộ Công thương, kim ngạch xuất khẩu cả năm 2008 của Việt Nam ước đạt gần 63 tỷ USD, tăng trên 29,5% so với năm 2007. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Những mặt hàng đã đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD những năm trước tiếp tục duy trì ở mức cao như dầu thô (10,5 tỷ USD), dệt may (9,1 tỷ, giày dép (4,7 tỷ USD), thủy sản (4,56 tỷ USD), gạo (2,9 tỷ USD), sản phẩm gỗ (2,78 tỷ USD), cà phê (2 tỷ USD), cao su (1,6 tỷ USD), than đá (1,44 tỷ USD). Đặc biệt trong năm nay có thêm mặt hàng dây điện và cáp điện đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (ước đạt 1,04 tỷ).
Nhập siêu được kiềm chế
Năm 2008, mục tiêu kiềm chế nhập siêu đặt ra từ đầu năm là dưới 20 tỷ USD. Kết thúc năm, theo Bộ Công Thương, nhập siêu ước chỉ ở khoảng 17 tỷ USD (theo Tổng cục Thống kê khoảng 17,5 tỷ USD).
Trong 5 tháng đầu năm, nhập siêu tăng mạnh, cao hơn gần 3,4 lần so với cùng kỳ năm 2007, lên tới 14,4 tỷ USD. Nhưng liên tiếp trong 7 tháng cuối năm, nhập siêu được kiềm chế ở mức thấp; một trong những nguyên nhân chính là do giá hàng nhập khẩu trên thị trường thế giới giảm mạnh, đặc biệt là xăng dầu.
Điểm đáng chú ý là trong năm 2008, lần đầu tiên tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vượt tốc độ tăng trưởng nhập khẩu (29,5% so với 27,5%); năm 2007 tốc độ tăng trưởng nhập khẩu tăng 25,6%, trong khi xuất khẩu là 12,7%. Đây là một thuận lợi góp phần ổn định cán cân thương mại, hỗ trợ kiềm chế nhập siêu.
Trong cơ cấu nhập siêu lớn nhất là từ châu Á, đứng đầu là từ Trung Quốc với 10,8 tỷ USD, cao hơn 1,7 tỷ USD so với năm 2007.
Xuất khẩu chịu tác động mạnh của khủng hoảng
Từ tháng 9, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toán cầu đã bắt đầu thể hiện trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đồng loạt giảm giá mạnh, đặc biệt ở mặt hàng dầu thô, nông sản, thủy sản…
Trong hai tháng cuối năm, lượng đơn hàng từ đối tác nước ngoài của nhiều ngành hàng bị hủy bỏ hoặc sụt giảm, tiêu biểu như dệt may giảm khoảng 20% - 30% về số đơn hàng và giá, thủy sản giảm khoảng 30% đơn hàng và giá…
Theo dự báo của Bộ Công thương, những khó khăn trên sẽ tiếp tục thể hiện trong năm 2009. Đây cũng là lý do mục tiêu tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2009 chỉ đặt ở mức thấp là 13%.
Giá hàng xuất nhập khẩu biến động mạnh
Liên quan đến ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, năm 2008 chứng kiến những biến động chưa từng có về giá hàng xuất nhập khẩu, ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của nhiều doanh nghiệp.
Trong nửa đầu năm, giá hàng hóa trên thị trường thế giới leo thang, gây áp lực tăng chi phí nhập khẩu và đẩy nhập siêu lên cao; lạm phát trong nước cũng có một phần nguyên nhân từ diễn biến này. Ngược lại, giá tăng cao cũng là yếu tố thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu dầu thô, nông sản; trong 7 tháng đầu năm, giá dầu thô tăng khoảng 60%, giá gạo tăng hơn 50%, than đá tăng 55%, cao su và cà phê tăng hơn 30%... so với cùng kỳ năm 2007.
Từ cuối tháng 7, giá hàng trên thị trường thế giới bắt đầu bước vào một đợt thoái trào mạnh, đặc biệt từ tháng 9. Theo đó, lạm phát, nhập siêu có thêm yếu tố thuận lợi để kiềm chế, trong khi xuất khẩu chịu ảnh hưởng nặng.
Điểm lại, những biến động của giá hàng xuất nhập khẩu trong năm 2008 hầu hết đều đánh đổ các dự báo và lường tính của doanh nghiệp, cũng như hoạch định dự kiến của nhà điều hành chính sách.
Khó khăn từ biến động tỷ giá
So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND đã tăng khoảng 9%, vượt xa mức thay đổi quanh 1% những năm gần đây, trong khi đồng USD vẫn chiếm tỷ trọng chi phối trong thanh toán quốc tế (khoảng 70%).
Mức tăng vượt trội này đẩy chi phí nhập khẩu, chi phí sản xuất kinh doanh của những ngành hàng có đầu vào lớn từ nguyên liệu nhập khẩu, chi phí vay nợ ngoại tệ tăng cao. Đây cũng là năm nổi bật khi trong báo cáo tài chính của nhiều doanh nghiệp chi phí của tỷ giá tăng đột biến.
Biến động khó lường của tỷ giá còn thể hiện ở sự trái chiều trong nửa đầu năm 2008 (giảm mạnh những tháng đầu năm, tăng đột biến ngay sau đó), gây xáo trộn kế hoạch sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. “Sống chung” với nguy cơ chống bán phá giá
Trở thành “thông lệ” của hội nhập những năm gần đây, năm 2008, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục đứng trước nguy cơ bị điều tra chống bán phá giá, nhất là sản phẩm dệt may và giày da.
Giữa tháng 5, Ấn Độ chính thức điều tra bán phá giá đối với mặt hàng sợi vải của Việt Nam; tháng 12, Hiệp hội Công nghiệp Giày Brazil cũng chính thức nộp đơn khởi kiện giày dép Việt Nam bán phá giá… Nổi bật nhất là trường hợp Ủy ban châu Âu (EC) lên kế hoạch rà soát chống bán phá giá đối với sản phẩm giày da của Việt Nam; các doanh nghiệp xuất khẩu giày sẽ phải tiếp tục chịu mức áp thuế chống bán phá giá 10%.
Tính đến cuối năm 2008, ước tính đã có tổng cộng hơn 30 vụ kiện về chống bán phá giá đối với hàng Việt Nam xuất khẩu. Trước những khó khăn này, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã thành lập Hội đồng Tư vấn Chống bán phá giá để hỗ trợ các hiệp hội, doanh nghiệp ứng phó với nguy cơ bị kiện chống bán phá giá của nước ngoài.
Điều chỉnh thuế nhiều mặt hàng xuất nhập khẩu
Năm 2008 chứng kiến một tần suất hiếm thấy trong điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu đối với nhiều mặt hàng. Một mặt, những điều chỉnh này được thực hiện theo các cam kết thuế quan giữa các nước thành viên khối ASEAN và theo lộ trình gia nhập WTO; mặt khác, đây cũng là ứng xử của nhà điều hành chính sách trước những biến động mạnh và bất thường trên thị trường thế giới nhằm hỗ trợ cho sản xuất, bình ổn thị trường trong nước, cũng như hỗ trợ các ngành hàng xuất khẩu.
Thuế một loạt các mặt hàng nông sản, đồ gỗ, sắt thép, xăng dầu, gas, ôtô, giấy, nguyên vật liệu cho sản xuất… liên tục được điều chỉnh; điển hình như thuế xuất khẩu thép, thuế nhập khẩu xăng dầu.
Một điểm đáng chú ý là tần suất điều chỉnh chính sách thuế xuất nhập khẩu tập trung từ tháng 9 về cuối năm, giảm phổ biến ở nhiều mặt hàng (riêng thuế nhập khẩu xăng dầu liên tục tăng), như một giải pháp để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, ngành hàng trong bối cảnh suy giảm kinh tế trong và ngoài nước.
Chuyển động mới trong mở rộng thị trường xuất khẩu
Trước khó khăn của những thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật Bản…, hoạt động xuất khẩu của nhiều doanh nghiệp đã chủ động đẩy mạnh sang khai thác và mở rộng những thị trường mới, hoặc đã thâm nhập trước đó.
Theo báo cáo của Bộ Công thương, mức tăng trưởng của các khu vực thị trường có sự thay đổi, xuất khẩu sang thị trường châu Phi đã tăng tới 95,7%, châu Á tăng 37,8%; châu Đại dương tăng 34,9%, nhưng tăng chậm lại đối với châu Mỹ (21,9%), châu Âu (26,3%).
Cơ cấu thị trường hàng hoá cũng có sự chuyển dịch, tăng dần ở châu Á, châu Đại dương và châu Phi. So với tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, thị trường châu Á chiếm 44,5% (năm 2007 là 41,9%), châu Âu chiếm 18,3% (năm 2007 là 18,7%), châu Mỹ 20,6% (năm 2007 là 21,9%), châu Đại dương 6,7% (năm 2007 là 6,4%), châu Phi 1,9% (năm 2007 là 1,27%).
Chuyển động mới nói trên cũng là yêu cầu đặt ra trong năm 2009, như một giải pháp khắc phục khó khăn đã và dự báo tiếp tục thể hiện ở những thị trường truyền thống.
Nhiều điều chỉnh trong cơ chế điều hành
Ứng phó với những thay đổi nhanh về thị trường, giá cả trong hoạt động xuất nhập khẩu, năm 2008 chứng kiến nhiều thay đổi mang tính tình thế trong cơ chế điều hành của các cơ quan quản lý.
Những điều chỉnh về chính sách thuế trong những tháng cuối năm nói trên là một điển hình. Bên cạnh đó, chính sách tỷ giá USD/VND trong năm 2008 trở nên nổi bật ở vai trò kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, khi biên độ tỷ giá liên tục được nới rộng và tăng mạnh.
Những điều chỉnh của chính sách cũng thể hiện rõ ở việc thay đổi mục tiêu, định mức, cơ chế khuyến khích, hỗ trợ… ở một số ngành hàng. Tiêu biểu nhất là ở mặt hàng gạo và thủy sản với sự tập trung trong hoạt động hỗ trợ tín dụng, lãi suất, chính sách thuế và nguồn hàng…
Phía sau những điều chỉnh trong cơ chế điều hành cũng cho thấy khả năng dự báo, khó dự báo trong hoạt động xuất nhập khẩu năm 2008, cũng như những bài học kinh nghiệm.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Trong bối cảnh kinh tế tiếp tục khó khăn, diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro, Hiệp hội Rau quả Việt Nam đã đưa ra dự báo, nhu cầu tiêu thụ rau quả thế giới tiếp tục tăng từ 3,5-5% và ngành rau quả đặt mục tiêu xuất khẩu đạt 1 tỷ USD trong năm 2013.
Gần đây, nhiều lô hàng chè của Việt Nam xuất khẩu sang các nước châu Âu EU đã bị trả về do phát hiện có chứa các chất Acetamiprid và Imidacloprid. Đây là 2 chất thuộc danh mục 02, theo lộ trình sẽ bị đưa ra khỏi danh mục vào tháng 2/2015.
Trong khi các nền kinh tế lớn ở châu Âu bao gồm cả Đức, Pháp và Italy đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng nợ công khu vực đồng tiền chung euro, kinh tế Thụy Sĩ trong năm qua vẫn phát triển với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm 2012 đạt khoảng 422 tỷ USD.
Báo cáo cập nhật của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, nhập siêu năm 2008 của Việt Nam khoảng 17 tỷ USD, bằng 27% tổng kim ngạch xuất khẩu, cao hơn năm 2007 cả về giá trị và tỷ lệ so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Lường trước những diễn biến bất lợi từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, Bộ Công Thương chỉ đặt mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu năm 2009 ở mức 13%, với kim ngạch khoảng 72 tỷ USD, chưa bằng nửa mức tăng của năm nay so với năm 2007
Chỉ trong vòng 3 ngày liên tiếp cuối tuần, Saigon Co.op đã kịp khai trương 2 siêu thị và mở một cửa hàng thực phẩm đầu tiên trong chuỗi siêu thị thực phẩm mới mang tên Co.op Food. Nhanh chân chiếm lĩnh thị trường là mục tiêu của nhiều nhà bán lẻ nội địa trước thời điểm 1/1/2009.
Lường trước những diễn biến bất lợi từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, Bộ Công Thương chỉ đặt mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu năm 2009 ở mức 13%, với kim ngạch khoảng 72 tỷ USD, chưa bằng nửa mức tăng của năm nay so với năm 2007.
Vấn đề là các doanh nghiệp (DN) bán lẻ trong nước cần nhìn nhận một cách khách quan, không quá lo lắng về sức ép, nhưng không được phép chủ quan để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, hoạt động hiệu quả.
Năm 2008, xuất khẩu của nước ta xấp xỉ bằng 80% GDP, điều này chứng tỏ xuất khẩu có vị trí quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....