- Những năm gần đây người Canada quan tâm nhiều hơn đến mặt hàng thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là hàng ngoại nhập. Nhu cầu nội địa ước khoảng từ 750 triệu đô-la tới 1 tỷ đô-la hàng năm.
- Thị trường hàng thủ công mỹ nghệ ở Canada bao gồm một loạt các sản phẩm – từ những hàng hóa thủ công độc đáo như đồ trang sức mỹ nghệ thời trang, cho đến các sản phẩm lớn như: những bức trướng treo tường, bức điêu khắc gỗ và kim loại, tác phẩm kiến trúc bằng kim loại, đồ gỗ nội thất và vật dụng trang trí dùng cho nhà ở hoặc văn phòng.
- Nhóm hàng trang trí nhà cửa đang được tiêu thụ mạnh ở thị trường Canada, từ vật liệu dán tường, khăn trải bàn, cho đến bộ đồ ăn, nến, đồ thủy tinh, khung ảnh (gỗ và kim loại), tượng và đài phun nước để trang trí ngoài sân vườn...Nhóm hàng quà tặng công ty, đặc biệt là những mặt hàng có gắn logo hay những gì có thể nhận biết được công ty cũng được tiêu thụ mạnh trên thị trường.
- Sự phát triển cộng đồng di dân thiểu số ở Canada tạo nhu cầu đa dạng về chủng loại và kiểu kiểu dáng cũng như về vật liệu làm cho thị trường hàng thủ công mỹ nghệ Canada phong phú hơn.
II. Qui định nhập khẩu
Theo qui định của cơ quan thuế và hải quan Canada, một số hàng thủ công mỹ nghệ nhập khẩu vào Canada có thể được miễn hoặc áp mức thuế thấp, nếu hàng đến từ các nước được hưởng qui chế ưu đãi thuế quan chung (GPT), miễn là hàng hóa thỏa mãn các tiêu chí sau:
(i) có hình thức hay trang trí được sử dụng truyền thống bởi người bản xứ hay đại diện cho bất kỳ biểu tượng quốc gia, lãnh thổ hay tôn giáo nào của nơi làm ra sản phẩm đó;
(ii) được làm bởi thợ thủ công dùng công cụ cầm tay hoặc bằng máy dùng tay hoặc chân để điều khiển;
(iii) là đặc thù đối với quốc gia đó – không phải là hàng nhái của một nước khác;
(iv) không được sản xuất với số lượng lớn bằng dụng cụ tinh vi hay bằng khuôn;
(v) có chức năng sử dụng, nhưng chứa đựng giá trị nghệ thuật, giá trị tôn giáo hoặc giá trị văn hóa.
Hàng thủ công mỹ nghệ không đủ tiêu chuẩn miễn thuế hoặc hưởng mức thuế ưu đãi nếu:
(i) là hàng tiêu dùng đơn thuần không có đặc điểm nghệ thuật hay trang trí nào;
(ii) là hàng nhái hoặc bắt chước sản phẩm của nước khác;
(iii) các sản phẩm có đặc điểm chính tương tự (về kích cỡ, kiểu dáng và phương thức sản xuất) và chất lượng được kiểm soát chặt chẽ;
(iv) có bằng chứng là một sản phẩm thủ công mỹ nghệ gốc, được sử dụng làm mẫu để tái sản xuất hàng loạt các sản phẩm bằng tay và một phần bằng các dụng cụ tinh vi hay bằng khuôn.
Giấy chứng nhận sản phẩm được làm theo một mẫu cụ thể và được ký xác nhận bởi cơ quan có thẩm quyền tại nước xuất xứ.
III. Tập quán thương mại
1. Tìm kiếm nhà nhập khẩu
- Canada được xếp vào danh sách các nước có nhu cầu nhập khẩu cao tính theo đầu người;
- Các nhà xuất khẩu trên thế giới đều hiện diện ở thị trường Canada nên thị trường hàng thủ công mỹ nghệ ở Canada cạnh tranh rất khắc nghiệt;
- Để thâm nhập thị trường này, nhà xuất khẩu hoặc phải đưa ra một sản phẩm hoàn toàn mới hoặc thật mạnh để có khả năng loại bỏ đối thủ đang cung cấp cùng loại mặt hàng, với bản chào hàng hấp dẫn hơn về chất lượng, dịch vụ hoặc nhãn hiệu;
- Để có được chiến lược phát triển thị trường Canada, các nhà xuất khẩu cần lưu ý tới những điểm mấu chốt sau:
(i) sản xuất hàng mẫu với vòng quay nhanh;
(ii) trả lời tất cả các thư giao dịch ngay trong ngày (bằng fax, email/điện thoại;
(iii) giao hàng đúng hạn, nếu giao trễ phải được người mua đồng ý;
(iv) hàng giao phải đúng với đặc trưng kỹ thuật đã được hai bên thỏa thuận hay đúng với hàng mẫu, nếu có thay đổi phải được người mua chấp thuận;
(v) cung cấp hàng liên tục;
(vi) bao bì thích hợp cho vận tải đường biển;
(vii) phương tiện lưu kho và bốc xếp hợp lý;
(viii) khuyến mại, đặc biệt với sản phẩm mới;
(ix) có kiến thức về thanh toán quốc tế;
(x) đại diện giao dịch phải nói thông thạo tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.
- Email trở thành phương tiện liên lạc với nhà nhập khẩu Canada. Vì vậy, nên cung cấp địa chỉ email cho họ để họ tiện liên lạc, nếu không làm được điều này thì nhà nhập khẩu Canada sẵn sàng từ bỏ ý định mua hàng. Nên thiết lập cho công ty mình một trang web, đảm bảo rằng trang web này có trong danh mục của các công cụ tìm kiếm lớn;
- Các nhà nhập khẩu và phân phối hàng thủ công mỹ nghệ Canada thường tham dự các hội chợ sau:
o Canadian’s Creative Conference and trade show ở Toronto và Calgary (www.cdncraft.org/pages/tradeshows/toronto2003.htm);
o One of a kind Christmas Canadian Craft Show and Sale ở Toronto
Ø (www.oneofakindshow.com);
o Salon des métiers d’art du Québec ở Montreal và Salon Plein Art ở Québec (www.métiers-đ-art.qc.ca/salonscma)
2. Những lưu ý khi đã tìm được nhà nhập khẩu
- Phần lớn các nhà nhập khẩu hoặc đại lý của họ muốn đến thăm cơ sở sản xuất.
- Bắt đầu giao dịch, khách hàng Canada thường yêu cầu nhà xuất khẩu cung cấp hàng mẫu cùng với giấy chứng nhận phân tích do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất xứ hàng hóa cấp.
- Nhà xuất khẩu cũng nên nhớ rằng luôn có sự cạnh tranh tiềm ẩn của các nhà cung cấp từ Mỹ vì họ hiểu rất rõ thị trường Canada, chi phí vận chuyển thấp, giao hàng nhanh, cơ chế thanh toán đơn giản.
- Nhà xuất khẩu có thể đưa ra các điều kiện đặc biệt cho phép nhà xuất khẩu chuyển chi phí lưu kho hay tồn kho sang phía nhà bán lẻ. Đơn hàng lớn thường có điều khoản này.
- Nhà xuất khẩu nên lưu tâm cụ thể đến yêu cầu về dán nhãn và bao gói chính xác. Hàng thủ công mỹ nghệ dùng bên ngoài (có hoặc không có mái che) phải đủ khả năng chịu được sự biến đổi mạnh về nhiệt độ và độ ẩm. Mặt hàng dành cho trẻ em phải thỏa mãn yêu cầu chỉ tiêu an toàn về sức khỏe, tính mạng và các tiêu chuẩn chống cháy nổ.
3. Phân phối và khu vực tiếp thị
- Các khu vực thị trường chính ở Canada là những thành phố đông dân cư: Toronto, Montreal và Vancouver. Gom hàng từ khắp các miền của Canada tới 3 thành phố này là điểm nổi bật của hệ thống phân phối.
- Phân phối hàng thủ công mỹ nghệ ở Canada chủ yếu dựa trên việc giao hàng trực tiếp từ nhà sản xuất tới người giao nhận, rồi đến nhà nhập khẩu (trong một số trường hợp, đồng thời họ cũng là nhà bán lẻ).
- Phân phối hàng bán lẻ được thông qua một loạt các dạng cửa hàng gồm cửa hàng thủ công độc lập, cửa hiệu bán đồ quà tặng, cửa hàng tổng hợp và cửa hàng chiết khấu, nhỏ hơn là cửa hàng “Một Đô-la”- nơi bán hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất với số lượng lớn. Hàng thủ công mỹ nghệ thường được dùng như một phụ liệu trong các cửa hàng chuyên biệt để thúc đẩy doanh số hàng nội thất, hàng gia dụng và đồ trang trí sân vườn.
4.Dán nhãn hiệu
- Nhãn hiệu trên hàng nhập khẩu phải tuân thủ tiêu chuẩn Canada;
- Nhà xuất khẩu phải nhờ nhà nhập khẩu tư vấn;
- Bất kỳ yêu cầu nào về nhãn hiệu bị thiếu thì hàng hóa đó không thể bán được trên thị trường;
- Hàng nhập khẩu được mô tả bằng ngôn ngữ nước ngoài phải có thêm nhãn hiệu riêng bằng tiếng Anh và tiếng Pháp;
- Hình ảnh minh họa trên nhãn hàng phải đúng như nội dung trong bao hàng.
- Nhãn hàng phải dễ thấy, chữ viết và chữ số phải đúng kích cỡ tối thiểu qui định
Trạng thái xuất siêu trong tháng 7 đã không thể kéo dài thêm. Trong nửa đầu tháng 8, cán cân thương mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam lại ghi nhận mức thâm hụt xấp xỉ 256 triệu USD, theo số liệu của Tổng cục Hải Quan.
Ghi lại ý kiến của ông Yoshida Sakae, Giám đốc điều hành Văn phòng TPHCM của Tổ chức Thúc đẩy ngoại thương Nhật Bản (Jetro), về cách thức làm ăn với người Nhật và thâm nhập thị trường Nhật tại hội thảo “Hội nhập kinh tế thế giới”, do Công ty Điện tử Minh Trân tổ chức tuần qua.
Hiện số lượng các sản phẩm của Việt Nam vào thị trường Hồi giáo còn quá ít, do các doanh nghiệp chưa có nhiều thông tin cũng như chưa quan tâm đúng mức đến việc phát triển các sản phẩm đáp ứng yêu cầu.
Trung Quốc vẫn là một thị trường trọng điểm hàng đầu và là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Với một thị trường tiềm năng lớn như vậy, DN VN sẽ có nhiều cơ hội để phát triển những mặt hàng chủ lực. Song, thị trường này vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Sau thảm hoạ động đất và sóng thần tháng 3-2011, nhu cầu tiêu dùng của Nhật Bản bị sụt giảm trong ngắn hạn, nhưng dự báo sẽ tăng mạnh đối với một số hàng hoá trong thời gian khoảng một năm sau đó.
Nhu cầu giấy containerboard toàn cầu sẽ tăng trưởng trung bình vào khoảng 2,7% mỗi năm. Các khu vực và quốc gia có sự tăng trưởng dưới mức trung bình là: Nhật Bản, Bắc Mỹ và Tây Âu, các khu vực có mức tăng trưởng cao là châu Á, Nga và Đông Âu.
Tiềm năng tiêu thụ của thị trường An-giê-ri là rất lớn. Xu thế nhập khẩu của thị trường ngày một tăng cao. Nhu cầu của An-giê-ri đối với nhiều sản phẩm của VN là phù hợp và có ý nghĩa lâu dài, vì tự An-giê-ri không sản xuất được hoặc sản xuất được rất ít.
Các tập đoàn viễn thông quốc tế ngày càng quan tâm đến thị trường châu Phi tiềm năng chưa được khai thác, do đó sự cạnh tranh của các công ty nước ngoài và khu vực để giành các cơ hội kinh doanh trên thị trường béo bở này trở nên quyết liệt hơn.
Ở Maroc, tuy thương mại truyền thống vẫn chi phối cơ cấu thương mại nhưng những siêu thị lớn cũng ngày một có thêm thị phần. Hoàn toàn vắng bóng cách đây chục năm, những siêu thị lớn hiện nay đã chiếm khoảng 10% lượng hàng hoá bán lẻ tại Maroc trong khi năm 1999 tỷ lệ này mới là 3%. Mặc dù số lượng còn ít nhưng các siêu thị đã có sự phát triển rất nhanh. Hệ thống phân phối lớn lương thực thực phẩm chỉ chiếm 5-6% hoạt động bán lẻ. Maroc có 200 cửa hàng diện tích trên 300m2 và 17 đại siêu thị (diện tích trên 2 500 m2 ) trong đó 6 siêu thị mua bán trực tiếp (nửa bán sỉ). Hiện nay, khoảng 60% hệ thống siêu thị tập trung ở trục đường Rabat-Casablanca.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....