Dị dạng lõm ngực bẩm sinh không chỉ làm mất thẩm mỹ mà nghiêm trọng hơn, bệnh còn có thể làm suy giảm trí thông minh, tổn hại đến chức năng hô hấp, tim và gây ra những cơn đau ngực, đau lưng triền miên.
Lõm ngực bẩm sinh là biến dạng lồng ngực bẩm sinh do sự phát triển bất thường của một số xương sườn và xương ức làm cho lồng ngực bị lõm vào. Dị tật này thường gặp ở chủng tộc da trắng, chiếm tỷ lệ 1/400 – 1/300 trẻ sinh ra còn sống, trong đó nam nhiều gấp bốn lần nữ. Người ta cho rằng lõm ngực bẩm sinh đã được nhận biết từ thời xa xưa nhưng thật ra sớm nhất là vào thế kỷ 16. Một số tác giả còn đi đến kết luận, bệnh này có khả năng di truyền trong cùng một gia đình.
Những biến chứng do lõm ngực
Lúc đầu việc phân loại dị tật lõm ngực không được quan tâm cho đến khi có sự can thiệp điều trị ngoại khoa. Các phẫu thuật viên đã nỗ lực xây dựng thành những bảng phân loại chính xác và dễ áp dụng cho mục đích điều trị. Phân loại đơn giản nhất gồm hai loại: lõm ngực đồng tâm và lõm ngực lệch tâm, dựa vào vị trí điểm lõm sâu nhất so với đường giữa xương ức. Điểm lõm này nếu nằm trên đường giữa xương ức là lõm ngực đồng tâm, nếu lệch xương ức gọi là lõm ngực lệch tâm. Bác sĩ Donald Nuss, người mổ lõm ngực nhiều nhất hiện nay trên thế giới đã phân loại dựa vào các đặc điểm hình dạng vùng lõm, chiều dài đoạn xương ức bị lõm và độ xoắn vặn của xương ức.
Hiện tượng lõm xương ức kéo theo sự phát triển bất thường các sụn sườn lân cận, sự phát triển bất thường đó gây ra hiện tượng đau ngực tại các vị trí này. Qua nhiều năm, người ta nhận thấy một số bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh còn có bất thường sinh lý, sau mổ tình trạng rối loạn được cải thiện hoàn toàn. Lõm ngực nhiều cũng làm bệnh nhân khó thở, hay bị mệt và suy dinh dưỡng. Nhiều người đến khám với lồng ngực bị lép và lõm, gầy trơ xương và có cả những trường hợp suy giảm trí thông minh do suy dinh dưỡng. Người bệnh thường có triệu chứng hồi hộp, đánh trống ngực do tim bị xoay và bị chèn ép. Những triệu chứng này sẽ bị mất đi khi họ được phẫu thuật.
Làm sao phát hiện dị tật?
Dị tật có thể phát hiện ngay sau sinh hoặc vào lúc đến tuổi dậy thì. Diễn tiến tự nhiên của dị tật không tự khỏi, mức độ lõm ngực có thể giữ nguyên như sau khi sinh đến lúc trưởng thành. Tuy nhiên đa số các trường hợp nặng dần, diễn tiến chậm từ sau sinh đến tuổi dậy thì và nặng lên rất nhanh trong giai đoạn dậy thì. Hầu hết các bệnh nhân đều dung nạp tốt ở giai đoạn nhũ nhi và lúc trẻ. Nhưng với trẻ em lớn, có thể sẽ than đau vùng biến dạng sụn hoặc đau vùng trước tim sau khi có hoạt động gắng sức. Một số bệnh nhân khác thì bị hồi hộp đánh trống ngực, khó thở khi có hoạt động nào gắng sức.
Có thời gian khá dài người ta hy vọng có thể điều trị lõm ngực bằng cách tập vật lý trị liệu, nhưng các kết quả sau đó đều cho thấy thất bại |
Lõm ngực bẩm sinh được nghĩ đến bắt đầu bằng việc nhìn thấy hình dáng bất thường của thành ngực trước. Khi khám cho bệnh nhân, thầy thuốc thấy mỏm tim nằm lệch về bên trái. Thành ngực trước có vùng lõm sâu hình chén hoặc dẹt rộng. Nghe tim có thể có âm thổi tâm thu của sa van hai lá.
Đỡ ngực bằng thanh kim loại
Từ lâu người ta đã biết đến dị dạng lõm ngực bẩm sinh nhưng rất lúng túng trong việc tìm ra biện pháp điều trị thích hợp và có hiệu quả. Phần lớn bệnh nhân đều được thầy thuốc khuyên nên tập vật lý trị liệu, ăn chế độ ăn giàu chất canxi. Có một thời gian khá dài, người ta còn hy vọng có thể điều trị lõm ngực bằng cách tập vật lý trị liệu, tuy nhiên các kết quả sau đó đều cho thấy thất bại.
Một số thầy thuốc khác đề ra phương pháp điều trị lõm ngực bẩm sinh bằng phẫu thuật như bác sĩ Sauerbruch, bác sĩ Ravitch… Nhưng phần lớn các phẫu thuật này đều phức tạp và nặng nề, khả năng tàn phá lồng ngực lớn mà hiệu quả không cao. Cho đến khi bác sĩ Donald Nuss, phẫu thuật viên nhi khoa tại bệnh viện King Daughter Children’s Hospital ở Florida (Mỹ) nghiên cứu và đưa ra phương pháp phẫu thuật nâng ngực dựa trên nguyên tắc sử dụng những thanh đỡ bằng kim loại. Từ sau thành công này nhiều bệnh viện ở Mỹ và châu Âu cũng bắt đầu ứng dụng theo. Ở Việt Nam từ năm 2008, kỹ thuật này đã được các chuyên gia ở Hàn Quốc chuyển giao cho một số bệnh viện lớn tại TP.HCM như bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện đại học Y dược TP.HCM… và đã có hàng ngàn bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp này với kết quả tốt.
(Theo PGS.TS.BS Nguyễn Hoài Nam // SGTT Online)