Ung thư da gồm nhiều loại u ác tính khác nhau xuất phát từ các tế bào biểu mô của da. Có nhiều loại ung thư da, nhưng ba loại thường gặp nhất là ung thư biểu mô tế bào đáy, ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư tế bào hắc tố.
Biểu hiện lâm sàng của các loại ung thư này cũng rất đa dạng. Nhưng điều quan trọng là khi có một thương tổn da lâu lành, nhất là khi có vết loét dai dẳng hoặc một đám sắc tố không đồng đều, phát triển bất thường thì chúng ta cần đến khám tại chuyên khoa da liễu.
Ung thư tế bào đáy
Ánh mặt trời là nguyên nhân chính dẫn đến bệnh ung thư da. |
Là loại ung thư da hay gặp nhất chiếm khoảng 75% các loại ung thư da, nhưng thường chỉ xâm lấn tại chỗ, rất ít di căn xa. Nguồn gốc tế bào của loại ung thư này chưa rõ ràng. Biểu hiện là khối u nhỏ, hình tròn, hơi nổi cao, bóng (như hạt ngọc trai), trên có các mạch máu giãn, thâm nhiễm cứng, màu da bình thường hay có hiện tượng tăng sắc tố, có thể loét, dễ chảy máu, vị trí ở vùng da hở.
Ung thư biểu mô tế bào đáy tiến triển chậm, xâm lấn tổ chức xung quanh gây biến dạng và làm rối loạn chức năng của một số cơ quan bộ phận như mũi, miệng và mắt. Nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời cắt bỏ rộng thương tổn, tiên lượng của bệnh rất tốt.
Ung thư biểu mô tế bào gai
Là loại u ác tính xuất phát từ các tế bào sừng của thượng bì. Ung thư biểu mô tế bào gai chiếm khoảng 20% các loại ung thư da, đứng thứ hai sau ung thư tế bào đáy. Ngoài khả năng xâm lấn tại chỗ các tế bào ung thư có thể di căn xa ở hạch hoặc các cơ quan khác. Mức độ di căn tùy thuộc vào kích thước và vị trí của thương tổn.
Tỉ lệ ung thư biểu mô tế bào gai khác nhau giữa các chủng tộc và vùng lãnh thổ. Thường ung thư này hay xuất hiện trên các thương tổn da có sẵn như các vết loét mạn tính, sẹo bỏng, một số bệnh da mạn tính. Ở Việt Nam hay gặp trên các bệnh nhân có hẹp bao qui đầu chưa được điều trị. Do đó, những người có hẹp bao qui đầu nên đi phẫu thuật cắt rộng bao qui đầu càng sớm càng tốt.
Biểu hiện của ung thư biểu mô gai là những khối u sùi, thâm nhiễm cứng, chắc, màu hồng đến màu đỏ, loét dễ chảy máu, đóng vẩy tiết nâu đen. Phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn tổ chức ung thư ở giai đoạn sớm khi chưa có di căn giúp có một tiên lượng tốt. Nhưng nếu bệnh nhân đến muộn khi đã có di căn hạch thì tỉ lệ sống sau 5 năm rất dè dặt, đặc biệt là những thương tổn ở sinh dục, chân, tay, tai.
Ung thư tế bào hắc tố
Là một loại ung thư da ác tính của các tế bào hắc tố với tỉ lệ di căn và tử vong cao. Loại ung thư này thường gặp ở người da trắng và chiếm khoảng 5% các loại ung thư da. Ung thư tế bào hắc tố có thể xuất hiện trên các nốt ruồi có từ trước, nhưng cũng có thể xuất hiện trên da hoàn toàn bình thường.
Biểu hiện là các u hoặc đám tăng sắc tố không đều màu đen, nâu lẫn lộn, không đối xứng, phát triển nhanh trong thời gian ngắn, bờ khúc khuỷu, kích thước lớn hơn 0,6cm, có thể loét, di căn nhanh nhất là khi thương tổn được can thiệp ngoại khoa như dùng laser, plasma hay phẫu thuật không đúng cách.
Trong trường hợp nghi ngờ, cần phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ thương tổn và làm xét nghiệm mô bệnh học để xác định chẩn đoán. Cắt sinh thiết chỉ nên thực hiện khi thương tổn quá rộng không thể phẫu thuật ngay lấy bỏ toàn bộ thương tổn. Tiên lượng của bệnh hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ xâm lấn của các tế bào u. 95% bệnh nhân bị ung thư tế bào hắc tố thể nông bề mặt, sống trên 5 năm sau khi được phẫu thuật cắt bỏ khối u.
Ngoài ra, một số ung thư da khác ít gặp hơn như ung thư tế bào xơ, ung thư các tế bào nội mạc mạch máu, ung thư tế bào Merkel, ung thư tế bào tuyến bã.v.v. Chẩn đoán đôi khi gặp không ít khó khăn cần dựa vào kinh nghiệm của các bác sĩ lâm sàng và giải phẫu bệnh, đặc biệt là xét nghiệm hóa mô miễn dịch sử dụng một số markers đặc hiệu đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán xác định các loại ung thư này.
Các yếu tố nguy cơ gây ung thư thường gặp
Ánh sáng mặt trời (tia cực tím) là nguyên nhân chủ yếu gây ung thư da. Do vậy, ung thư da gặp nhiều ở những người da sáng màu và ở vùng nhiều ánh nắng. Đặc biệt như ở Úc tỉ lệ ung thư da cao là do bị thủng tầng ozon không ngăn cản được các tia cực tím của ánh sáng mặt trời.
Những biến đổi về gen: Một số gen tham gia vào quá trình sửa chữa các tổn hại ở da do các yếu tố môi trường gây ra như gen p53, gen BRAF, gen “patched”, gen Hedgehog... Khi các gen này bị ức chế hoặc biến đổi thì khả năng sửa chữa không còn và dễ dẫn đến xuất hiện nhiều ung thư da.
Human papilloma virus (HPV): nhiều nghiên cứu thấy sự liên quan giữa ung thư da và virus gây sùi ở người (HPV). Các virus này thường liên quan đến ung thư biểu mô gai.
Các yếu tố khác: Một số yếu tố như nhiễm độc một số kim loại nặng (arsenic) cũng là nguyên nhân của ung thư da, nhất là ung thư biểu mô tế bào gai. Thuốc lá, hắc ín, các chất diệt cỏ, thuốc trừ sâu, cũng được nhiều nghiên cứu chứng minh là những nguyên nhân gây ung thư tế bào gai.
Chẩn đoán ung thư da
Có thể dựa vào các biểu hiện lâm sàng, nhưng để khẳng định chắc chắn thì phải làm xét nghiệm mô bệnh học và làm hóa mô miễn dịch trong các trường hợp khó. Đặc biệt với ung thư biểu mô gai đôi khi phải làm mô bệnh học nhiều lần và phải cắt sâu thương tổn khi có những thương tổn sùi tồn tại lâu thì mới phát hiện được tế bào ung thư.
Điều trị ung thư da
Nguyên tắc chung điều trị ung thư là loại bỏ sớm nhất toàn bộ tổ chức ung thư. Có nhiều biện pháp đã được áp dụng như phẫu thuật cắt bỏ rộng thương tổn, phẫu thuật cắt bỏ thương tổn có kiểm soát bằng giải phẫu bệnh (phẫu thuật Mohs), phẫu thuật lạnh, đốt bỏ thương tổn, xạ trị, hóa chất... Tùy từng trường hợp và hoàn cảnh cụ thể đối với từng trường hợp mà áp dụng các biện pháp điều trị khác nhau.
(Theo ThS. Vũ Thái Hà - TS. Nguyễn Sỹ Hóa //Sức khỏe & Đời sống)