Lần đầu tiên chiếc xe này được biết đến từ khoảng hai năm trước, khi Audi giới thiệu chiếc Metro Project Concept tại Tokyo Motor Show 2007. Sau đó, vào năm 2008 chiếc A1 Sportback đã được giới thiệu ở Paris Motor Show.
Phiên bản sản xuất của chiếc minicar vừa được Audi giới thiệu cũng không khác nhiều so với chiếc Metro Project Concept của hai năm trước, ngay cả tông màu chủ đạo của chiếc xe với hai màu tương phản cũng là những gì được tìm thấy ở chiếc Metro Project Concept. Sự khác biệt lớn nhất của hai chiếc xe này theo Audi chính là khung gầm của chiếc xe.
Vật liệu tạo nên không gian nội thất của chiếc minicar này không được cao cấp, nhưng không gian nội thất giống với bản concept vẫn tạo được những ấn tượng riêng. Bên trong không gian nội thất có hệ thống điều hòa với bốn cửa đưa luồng khí vào quang không gian nội thất.
Audi đã cung cấp cho chiếc minicar này khá nhiều lựa chọn, từ tông màu sơn và nội thất, các đèn LED chiếu sáng nội thất...
Các bạn cũng có thể nhận ra, kiểu dáng tổng thể của Audi A1 có nhiều nét tương đồng với chiếc Volkswagen Polo và Skoda Fabia, những chiếc xe cỡ nhỏ đang rất thành công của tập đoàn Volkswagen. Nhưng khung xe đã được sửa đổi khá nhiều để tạo ra một chiếc xe mới.
Chiều dài tổng thể của Audi A1 là 3.95 mét, chiều rộng 1.74 mét và chiều cao 1.42 mét. Khoảng cách trục cơ sở của Audi A1 là 2.47 mét. Khoang hành lý trên chiếc minicar này có dung tích 267 lít, dung tích khoang hành lý của Audi A1 sẽ tăng lên 920 lít nều gập hai ghế sau lại.
Audi sẽ sớm xuất xưởng chiếc minicar này với hai phiên bản trang bị động cơ xăng và hai phiên bản động cơ diesel. Tất cả các phiên bản A1 đều được trang bị động cơ siêu áp, công nghệ phun nhiên liệu trực tiếp cùng công nghệ start-stop.
Với phiên bản trang bị động cơ xăng 1.2 lít TFSI, chiếc xe sẽ có công suất tối đa 86 mã lực và momen xoắn 160 Nm – tại 1.500-3.500 vòng/phút. Cùng với hộp số tay năm cấp, động cơ bốn xi-lanh trên chiếc A1 có thể giúp chiếc xe tăng tốc tới 100 km/h trong 12.1 giây, tốc độ tối đa 179 km/h. Phiên bản này mất khoảng 5.1 lít xăng để đi được quãng đường 100 km, lượng khí thải CO2 tương ứng là 119 g/km.
Với động cơ xăng 1.4 lít TFSI, công suất tối đa mà động cơ này có thể sinh ra là 122 mã lực, momen xoắn cực đại 200 Nm – tại 1.500-4.000 vòng/phút. Cùng với hộp số S-TRONIC bảy cấp, chiếc xe có thể đạt tốc độ 100 km/h trong 9.1 giây, tốc độ tối đa 200 km/h.
Với trang bị chuẩn là hộp số tay sáu cấp, chiếc xe cần 9.2 giây để tăng tốc tới 100 km/h. Với hai lựa chọn hộp số tự động S-TRONIC và hộp số tay sáu cấp, lượng nhiên liệu tiêu thụ trung bình tương ứng là 5.1 lít/100 km và 5.4 lít/100 km.
Với chiếc Audi A1 trang bị động cơ diesel 1.6 lít TDI, công suất tối đa của chiếc minicar này là 105 mã lực, momen xoắn cực đại 250 Nm – tại 1.500-2.500 vòng/phút. Chiếc xe được trang bị hộp số tay năm cấp, với sức mạnh và hộp số này, chiếc xe có thể đạt tốc độ 100 km/h trong 10.8 giây, tốc độ tối đa 187 km/h. Lượng nhiên liệu tiêu thụ trung bình của chiếc A1 với động cơ diesel 1.6 lít là 3.9 lít cho quãng đường 100 km.
Phiên bản thứ hai trang bị động cơ diesel cũng có động cơ 1.6 lít TDI, công suất tối đa của chiếc xe này là 90 mã lực, momen xoắn cực đại 230 Nm – tại 1.500-2.500 vòng/phút. Chiếc xe có trang bị chuẩn là hộp số tay năm cấp, mất khoảng 12.2 giây để chiếc minicar này tăng tốc tới 100 km/h, tốc độ tối đa 179 km/h. Chỉ mất khoảng 3.8 lít dầu để chiếc xe đi được quãng đường 100 km, lượng khí thải tương ứng là 99 g/km.
Cả bốn phiên bản Audi A1 đều được trang bị hệ truyền động bánh trước cùng hệ thống phanh EPS và hệ thống visai điện tử. Theo Audi, chiếc A1 có trọng lượng thấp nhất là khoảng 1.045 kg.
Audi sẽ giới thiệu chiếc A1 tại Geneva Motor Show 2010, những chiếc minicar này sẽ chính thức xuất xưởng tại khắp châu Âu ngay sau khi Geneva Motor Show 2010 kết thúc. Mức giá cơ bản của chiếc xe này là khoảng 16.000 Euro – tương đương với khoảng 22.000 USD.
(Theo Thi Vũ // Diễn đàn doanh nghiệp)