Năm 2008 và quý I-2009, khủng hoảng tài chính, rộng hơn là khủng hoảng kinh tế vẫn đang tiếp tục diễn ra trầm trọng trên phạm vi toàn cầu. Các nước có nền kinh tế phát triển đã đưa ra gói trợ giúp lớn như, Mỹ chi 1.800 tỷ USD (tháng 4-2009), Nhật Bản chi gần 400 tỷ USD (tháng 4-2009), Pháp chi 40 tỷ ơ-rô (tháng 12-2008), Ðức 67 tỷ USD (tháng 1-2009) và Trung Quốc chi 580 tỷ USD (tháng 12-2008) (nguồn: IMF).
Tăng trưởng kinh tế năm 2008 của các nền kinh tế lớn giảm mạnh như Mỹ 1,57%, Nhật Bản còn 0,69%, Anh là 0,98%, Ðức là 1,85%, Pháp là 0,84%, Hàn Quốc là 2,1% và Trung Quốc còn 9,5%, Nga còn 7,0% (nguồn: IMF). Tăng trưởng năm 2009 được dự báo các nước Mỹ, Nhật Bản, Anh, Ðức, Pháp, Italy ở dưới mức 0,0%. Theo dự báo của IMF, WB hay nhiều tổ chức quốc tế và từ chính các quốc gia này thì năm 2010, tăng trưởng kinh tế của các nước lớn trên thế giới vẫn rất ảm đạm, chỉ có Nhật Bản, Pháp có tăng trưởng dương. Ðến nay chưa có ai từ quan chức các nước, tổ chức tài chính quốc tế đến chuyên gia độc lập danh tiếng khẳng định thời gian nào sẽ kết thúc cuộc khủng hoảng kép này.
Ở nước ta năm 2008 và quý I-2009, cũng đang bị ảnh hưởng mạnh, toàn diện và rất phức tạp từ khủng hoảng kinh tế thế giới. Những chỉ số kinh tế - xã hội năm 2008 biến động theo hướng không có lợi cho phát triển, lạm phát tăng liên tục tới 22%/năm, nhập siêu tăng mạnh lên 17 tỷ USD/năm, giá thép, giá gạo, giá dầu biến động rất lớn. Tăng trưởng GDP giảm liên tục qua các quý, kéo xuống còn 6,25%/năm. Sự biến đổi phức tạp từ thị trường tài chính vì sự mất cân bằng giữa lượng tiền lưu thông và khối lượng hàng hóa hiện có, tỷ giá hối đoái giữa VND và USD có lúc không thuận. Thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán mất giá liên tục. Thiếu điện trong tháng cao điểm. Giá cả giảm nhưng sức mua của thị trường quốc tế và trong nước tiếp tục giảm. Những con số mới một vài tháng trước làm chúng ta phấn khởi thì hiện nay gây lo ngại như giá dầu xuống khoảng 50 USD/thùng- lúc cao là 149 USD, giá gạo xuất khẩu còn hơn 450 USD/tấn - lúc cao là 1.200 USD (nguồn Bộ Công thương), v.v.
Nỗ lực cùng nhau giải quyết khủng hoảng kinh tế, trên thế giới, các nhà lãnh đạo các nước thuộc G20 tháng 3 vừa qua đã gặp nhau tại Anh bàn bạc thống nhất phương cách thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và vực dậy nền kinh tế thế giới. Kết quả của hội nghị vượt ra ngoài mong đợi của nhiều người, thậm chí ngay cả với người bi quan nhất. Ba điểm cơ bản, quan trọng nhất được thông báo khi kết thúc hội nghị là: Ðưa ra những quy định tài chính chặt chẽ hơn bao gồm cả việc hạn chế các hoạt động của quỹ đầu cơ; Bơm thêm gần 2.000 tỷ USD nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế; Ðổi mới Tổ chức Quỹ Tiền tệ quốc tế. Ở trong nước, Bộ Chính trị đã đưa ra chủ trương, đường lối để giải quyết tình hình này thông qua Nghị quyết 22, Chính phủ đã đưa ra gói 8 giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội. Hiện nay, Chính phủ đang nỗ lực thực hiện nhóm 5 giải pháp để tiếp tục giải quyết tình hình suy giảm kinh tế. Ðến thời điểm hiện tại, tuy đã thu được kết quả bước đầu về sản xuất kinh doanh, tài chính và an sinh xã hội nhưng nền kinh tế vẫn có những dấu hiệu làm chúng ta chưa yên lòng.
Ðể ngăn chặn suy giảm tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh, trong đó ưu tiên phát triển hàng hóa xuất khẩu và bảo đảm an sinh xã hội nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và tiếp tục đưa đất nước đi lên, trên góc độ nghiên cứu vĩ mô, chúng tôi xin nêu một số giải pháp sau:
Một là, đổi mới cơ chế, chính sách: Ðây là cơ hội thay đổi cách làm tiệm tiến, tiếp tục đổi mới trên tầm cao mới trên cơ sở đưa ra cơ chế, chính sách chất lượng cao và điều hành linh hoạt, hiệu quả mà xác định quyền sở hữu là khâu quan trọng. Bảy lĩnh vực cần làm là: Cải cách hành chính mà tinh giảm bộ máy, nâng cao năng lực, trách nhiệm gắn với đổi mới chế độ lương và chống tham nhũng; thị trường cần lành mạnh, tiền tệ lưu thông tốt, có tính thanh khoản cao, tỷ giá hối đoái phải linh hoạt; thuế phải tập trung vào khuyến khích sản xuất, xuất khẩu, thư giãn sức dân (sửa lại Luật Thuế thu nhập cá nhân) và đánh thuế tài nguyên cao; thu hút đầu tư, nâng cao hiệu suất đầu tư, nâng cao tỷ lệ giải ngân; cải cách doanh nghiệp Nhà nước theo hướng tập trung phát triển sản phẩm thương hiệu chủ lực quốc gia, tạo sức cạnh tranh quốc tế mạnh và tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa, tư nhân hóa; đẩy mạnh hoàn thiện, minh bạch thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán; bảo vệ môi trường theo cách tiếp cận cùng có lợi và cùng chịu trách nhiệm.
Hai là, đổi mới trong phát triển nhân lực và khoa học, công nghệ: Ðổi mới cách đánh giá và phát triển nguồn nhân lực để tạo ra tầng lớp tinh hoa với phương châm ít mà tinh và lực lượng lao động chất lượng cao dồi dào nhằm đáp ứng yêu cầu CNH, hội nhập kinh tế quốc tế. Ðổi mới sâu sắc hoạt động khoa học công nghệ kém chất lượng và hiệu quả thấp hiện nay để tạo ra động lực mới phát triển đất nước. Không thể xem nhẹ công tác khuyến nông - lâm - ngư - công nghiệp, vì đây là chìa khóa để người nông dân nâng cao đời sống và giảm nghèo. Cần tập trung có trọng điểm đào tạo lại và đào tạo ngoại ngữ cho lao động cùng với đó là thắt chặt, kiểm tra sát sao đối với lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc.
Ba là, về kích cầu kinh tế - xã hội: Cần nỗ lực hơn trong việc thực hiện hiệu quả gói kích cầu hiện nay và gói bổ sung. Trước hết tập trung vào phát triển đường cao tốc, hệ thống tàu điện ngầm tại Thủ đô Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, cảng biển quốc tế, đô thị trọng điểm, v.v. với sự trợ giúp của tư vấn quốc tế. Ðẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình, dự án trọng điểm quốc gia theo cơ chế đấu thầu. Bảo đảm an sinh xã hội trên cơ sở tiếp tục hỗ trợ người lao động và người nghèo, đặc biệt là sinh viên, công nhân ở các khu công nghiệp, nhân dân sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa và vùng biên giới về nhà ở, y tế, giáo dục, v.v.
Bốn là, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh: Cần thống nhất nhận thức, xác định dứt khoát đây là vấn đề cốt lõi để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Phát triển mạnh sản xuất kinh doanh trên cơ sở cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới thật sự công nghệ, v.v. để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm chủ lực và sản phẩm mới. Bằng nhiều giải pháp giữ vững giá trị tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường trọng điểm là Mỹ, Nhật Bản, EU, Nga, Trung Quốc (trọng tâm là giảm nhập siêu), Hàn Quốc và đồng thời mở thêm thị trường mới ở châu Phi, Trung Ðông. Bên cạnh đó là tiết kiệm trong sản xuất, cắt giảm chi tiêu công đúng mức, cắt đầu tư công trình kém hiệu quả và nâng cao hiệu quả đầu tư. Mở rộng thị trường nội địa bên cạnh tuyên truyền nhân dân giảm chi vào hàng hóa xa xỉ, sử dụng hàng hóa Việt Nam trong tình hình hàng ngoại chất lượng thấp, giá rẻ tràn vào thị trường.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Tại nhiều quốc gia, giá các mặt hàng cơ bản tiếp tục gia tăng trong khi sức mua của người dân lại giảm. Tình trạng khan hiếm đất canh tác buộc một số chính phủ phải đi thuê hoặc mua ở nước ngoài để đảm bảo an ninh lương thực cho chính mình.
Có nghịch lý , sản xuất nông nghiệp VN ngày càng đạt kết quả tốt. Nhưng là tốt trong thực tế ngày càng... bấp bênh. Bất kỳ tác động nào, từ thời tiết, phân bón, giống, thị trường... cũng có thể làm hỏng nỗ lực của nông dân, của Nhà nước và giới DN. Nông nghiệp đang vừa là nguồn sống, vừa là tương lai, và vừa là nỗi... sợ của các thành phần tham gia trong đó.
Năm 1997 Việt Nam đã tăng trưởng trên 8,15%, nhưng đến 1998 tốc độ này đã bắt đầu xuống dốc, đến năm 1999 thì chỉ còn 4,8%. Kinh tế trì trệ nhiều năm sau đó, cho đến 2005 mới ngoi lên được 8,4%, tương đương mức tăng trưởng của năm 1997 bắt đầu khủng hoảng.Việt Nam đã không lưu lại bất kỳ bài học nào từ cuộc khủng hoảng khu vực năm 1997, trong khi xuất hiện ngày càng nhiều quan ngại về thời gian và cách thức để ra khỏi khủng hoảng hiện tại mà mức độ của nó trầm trọng hơn nhiều.
Tại cuộc họp giao ban trực tuyến ngày 4.6 tại bộ NN&PTNT về điều hành xuất khẩu gạo, báo cáo của ông Trương Thanh Phong, chủ tịch hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) chỉ cho thấy một bức tranh màu hồng. Còn trái lại, đại diện cho các tỉnh Kiên Giang, Bến Tre, Cần Thơ… lại tỏ ra lo lắng thực sự khi giá lúa, gạo đã chững lại và giảm xuống còn việc thu mua và xuất khẩu gạo vào thời điểm này lại trở lên khó khăn.
Năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Do vậy, các chuyên gia dự báo, những năm tới nhu cầu đất phi nông nghiệp tiếp tục tăng, diện tích đất trồng lúa bị chuyển đổi mục đích sử dụng sẽ rất lớn nếu không được bảo vệ. Các nhà khoa học cho rằng, phải kiểm soát chặt chẽ quỹ đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa để vừa giữ vững an ninh lương thực (ANLT), vừa đảm bảo mục tiêu CNH, HĐH đất nước; đồng thời, có “bảo hiểm nông nghiệp” cho người trồng lúa để họ an tâm đầu ra và gắn kết “4 nhà”.
Gần đây, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ xây dựng các chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường nội địa, đẩy mạnh tiêu thụ hàng Việt Nam ở các vùng nông thôn… Nhưng trong khi các kế hoạch này còn chưa được thực hiện tốt thì hàng hoá nhập ngoại, nhất là hàng Trung Quốc với giá rẻ lại đang được đẩy mạnh xuất khẩu sang Việt Nam nhờ các chính sách khuyến khích về thuế… Việc chiếm lĩnh thị trường nội địa của doanh nghiệp trong nước càng khó khăn. Sài Gòn Tiếp Thị đã phỏng vấn bà Phạm Thị Loan, đại biểu Quốc hội, chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn Việt Á về vấn đề này.
- Theo ông Lê Văn Dung, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, công tác dự báo kinh tế của Việt Nam chưa được chú ý đầu tư cả về con người, vật chất nên kết quả dự báo không chuẩn. Để tránh những thiệt hại cần lập cơ quan dự báo kinh tế quốc gia.
Các doanh nghiệp đang chịu nhiều áp lực do bất cập của cơ chế chính sách, thủ tục hành chính và cả sự tắc trách, nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ công chức.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.