Nói Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chịu sự thách thức kép là vì thách thức từ nguồn, thượng lưu sông Mekong và thách thức từ biển không tác động riêng lẻ mà có quan hệ tương tác giữa sông, sóng và triều, ngay trên đồng bằng.
Các khu vực ở ĐBSCL bị ngập theo kịch bản nước biển dâng (nguồn: Trung tâm Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL) |
Thách thức từ biển - Khả năng biến động mạnh hơn
Ai cũng biết, chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) công bố hai mức nước biển dâng, 75cm và 100cm, vào năm 2100 và bản đồ ngập tương ứng ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tác động dễ thấy và được chờ đợi đầu tiên là tình trạng ngập tĩnh. Thế nhưng nó đa dạng và phức tạp hơn nhiều.
Với mức nước biển dâng, quá trình biển mạnh lên sẽ có những tác động tương ứng lên vùng duyên hải, vùng cửa sông và truyền theo sông vào trong nội địa châu thổ. Những thay đổi trong sự giao thoa giữa quá trình sông và quá trình biển, cũng như sự giao thoa giữa hai chế độ triều Biển Đông và Vịnh Thái Lan sẽ làm thay đổi môi trường tự nhiên, các diện sinh thái và từ đó tác động đến sản xuất và đời sống ở châu thổ này.
Nhiều công trình khoa học đã tìm cách giải đáp câu hỏi “Châu thổ sông Mekong hiện tại mang tính chất sông chi phối, triều chi phối, hay sóng chi phối?”.
Một báo cáo khoa học gần đây nhận định rằng châu thổ sông Mekong chuyển dần từ dạng triều chi phối sang dạng sóng - triều chi phối. Nhận định này, đúng hay sai, không chỉ ảnh hưởng đến việc hiểu biết quá trình hình thành và phát triển của dòng sông, địa mạo của châu thổ, mà còn ảnh hưởng đến việc lý giải các tương tác diễn ra trên châu thổ, nhất là trong bối cảnh BĐKH.
Chương trình khoa học “Điều tra cơ bản tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long” (1983-1990) nghiên cứu quá trình biến đổi dòng sông và bờ biển của châu thổ sông Mekong từ năm 1885 đến năm 1985 qua các mốc thời gian 1885, 1940, 1963, 1985.
Điều tra cho thấy, có những vùng bồi tụ liên tục như Mũi Cà Mau và, ngược lại, có những vùng xói lở liên tục như ở Cửa Bồ Đề (bán đảo Cà Mau). Có những vùng nơi đó hoạt động của sóng, gió và dòng hải lưu ven bờ gây nên bồi tụ xen kẽ với xói lở như ở huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.
Với mức nước biển dâng, tình trạng bồi tụ và xói lở chắc chắn hứa hẹn những biến động mạnh mẽ hơn nữa.
Giao thoa triều Biển Đông và Vịnh Thái Lan - Cần giải mã tiếp
Các kết quả điều tra khảo sát vùng Biển Đông và Vịnh Thái Lan được tiến hành khá chi tiết cách đây 50 năm. Thủy triều ĐBSCL và vùng biển kế cận đã được trình bày trong năm 1982. Thủy triều được xem xét như là một yếu tố của tài nguyên nước và nghiên cứu để phục vụ sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL năm 1990.
Chế độ triều trong Vịnh Thái Lan là nhật triều không đều với biên độ tối đa là 100 cm và trung bình là 70 cm. Ảnh hưởng của triều Vịnh Thái Lan lên sông Hậu (Bassac) là không đáng kể, kể cả vào mùa kiệt.
Ảnh hưởng của thủy triều lên sông Mekong trực tiếp từ Biển Đông qua các cửa Trần Đề, Định An, Cung Hầu, Cổ Chiên, Hàm Luông, Ba Lai, Cửa Đại và Cửa Tiểu, và từ Vịnh Thái Lan qua các kênh Vĩnh Tế, kênh Rạch Giá – Long Xuyên, kênh Cái Sắn. |
Ngược lại, giao thoa của nó với triều Biển Đông trên địa bàn bán đảo Cà Mau là hết sức sinh động, tạo nên một môi trường khá độc đáo. Sơ đồ phân vùng thủy văn thủy lực huyện Ngọc Hiển là một nỗ lực phân tích sự giao thoa của hai chế độ triều và môi trường này.
Thủy triều đi sâu vào nội địa bằng mạng lưới kênh, rạch và lạch triều chằng chịt, dẫn đến sự hình thành những vùng giáp nước. Tại đây bùn cát và xác bã thực vật ngưng đọng ở đáy, gây nên sự biến đổi địa mạo của lòng dẫn và, đến lượt nó, sự biến đổi địa mạo này tác động trở lại các dữ kiện thủy văn thủy lực của địa bàn.
Giới hạn truyền triều trên sông Mekong trong mùa kiệt là khoảng 350 km, còn trong mùa lũ vào khoảng 150 - 200 km. Tốc độ truyền triều trung bình trong mùa kiệt vào khoảng 25 km/h.
Trong một chu kỳ bán nhật, sóng triều đi được quãng đường xấp xỉ 320 km. Như vậy, trong mùa kiệt, sóng triều có thể truyền đến tận Phnom Penh và, khi sóng triều truyền tới đây, tại cửa biển, bắt đầu hình thành đỉnh sóng triều kế tiếp. Đây là một đặc điểm của sông Mekong và vùng châu thổ của nó.
Chiều dài đoạn sông có chế độ chảy hai chiều trong mùa kiệt có thể đạt đến 260 ÷ 280 km, và trong mùa lũ là 80 ÷ 100 km. Chiều dài nước rút xa nhất khoảng 25 km. Hai đại lượng này có liên quan đến vấn đề truyền mặn trực tiếp từ biển vào và là giới hạn dưới của khu tích nước trong sông…
Bức tranh thủy văn ĐBSCL ngắn gọn trên đây chắc chắn đã có những đổi thay từ cuối thập niên 1980 đến nay và cần được nghiên cứu, cập nhật một cách cơ bản, làm cơ sở cho việc ứng phó có hiệu quả với mức nước biển dâng.
(Theo GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân // Tienphong Online)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com