Cựu Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển tại lễ ký văn kiện gia nhập WTO của Việt Nam
Thiếu chiến lược về tham gia đàm phán, gia nhập các hiệp định thương mại quốc tế là nguyên nhân tạo nên “điểm nghẽn” trong hợp tác quốc tế. Doanh nghiệp là đối tượng chịu thiệt đầu tiên. Câu chuyện tham gia Công ước Viên là ví dụ.
VCCI đang tổ chức lấy ý kiến về việc Việt Nam tham gia Công ước mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước Viên) để từ đó làm cơ sở kiến nghị nhà nước xây dựng lộ trình ký kết. Đây là lần đầu tiên, một sáng kiến của cộng đồng doanh nghiệp thông qua VCCI được chủ động đóng góp vào quá trình thương lượng và đàm phán thương mại của Nhà nước. Luật sư Trần Hữu Huỳnh, Trưởng ban Pháp chế của VCCI, nhìn nhận động thái này như một biểu hiện tích cực của quá trình cải cách. Tuy nhiên, từ câu chuyện của việc tham gia công ước Viên, ông Huỳnh nhìn rộng đến những “điểm nghẽn” vẫn còn đang tồn tại trong quá trình xây dựng chính sách thương mại quốc tế
Hành trình 20 năm của một công ước
Từ những năm 90 của thế kỷ trước, sáng kiến tham gia một số công ước quốc tế như Công ước Viên, Công ước mua bán hàng hóa quốc tế, Công ước thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài (Công ước New York - Mỹ 1958), Công ước giải quyết tranh chấp đầu tư… đã được đề xuất tuy chưa chính thức. Dù vậy, đến nay Việt Nam mới chỉ tham gia một công ước quốc tế là Công ước New York - Mỹ 1958.
Bà Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ tịch hội đồng Tư vấn về phòng vệ thương mại (VCCI) nhớ lại, sau khi tốt nghiệp về nước, nhận công tác tại Bộ Thương mại, bà đã được giao thực hiện việc xem xét tham gia ký kết Công ước Viên. Tuy nhiên, cho đến khi bà Loan nghỉ hưu, công ước này vẫn còn ở dạng nghiên cứu xem xét… vô thời hạn. Vậy nên, với cương vị công tác mới tại VCCI, bà Loan một lần nữa có cơ hội được thúc đẩy cho Công ước Viên thoát khỏi cái sự “treo” trong suốt 20 năm qua. Sau bà Loan, đến nay đã có lớp nghiên cứu trẻ hơn tâm đắc với việc nghiên cứu Công ước Viên với điều kiện Việt Nam. Các nghiên cứu khoa học đều đưa ra kết luận, tham gia công ước sẽ chỉ mang lại lợi ích cho quốc gia và doanh nghiệp.
TS Nguyễn Minh Hằng, giảng viên Đại học Ngoại thương cho biết, tham gia Công ước Viên, Việt Nam có cơ hội thống nhất luật về mua bán hàng hóa quốc tế của mình với nhiều quốc gia và tăng cường sự tin tưởng của các đối tác thương mại cũng như tăng cường mức độ hội nhập thương mại. Từ góc độ doanh nghiệp, bà Hằng cho rằng, lợi ích nhận được rất trực tiếp như giảm chi phí pháp lý khi đi tìm hiểu về pháp luật; giảm rủi ro khi áp dụng quy phạm xung đột pháp luật. Bên cạnh đó, công ước sẽ tự động áp dụng cho các hợp đồng giữa các doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp của 74 quốc gia thành viên trên thế giới. Những điều trên sẽ góp phần tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Công ước Viên mang đến nhiều cái lợi trong khi cái bất lợi hầu như không có. Các chuyên gia cho biết, Việt Nam sẽ không phải đóng góp tài chính, không phải thành lập các cơ quan thực thi, không có nghĩa vụ báo cáo định kỳ như một số công ước khác và thủ tục gia nhập là đơn giản. Vậy vấn đề đặt ra là vì sao công ước này phải mất nhiều thời gian đến thế để được xem xét đến một cách chính thức như vậy?
Hội nhập nhưng thiếu chiến lược xây dựng chính sách
Một lý do khách quan cho việc chậm trễ nói trên có thể là do ở thời điểm của những năm 90 của thế kỷ trước, nhu cầu phát triển cũng như tham gia hội nhập của Việt Nam chưa sâu và chưa cấp bách. Vì vậy, các đối tượng liên quan chưa có kiến nghị chính thức. Nhưng xét về chủ quan, rõ ràng chúng ta chưa có đủ nguồn lực cho việc nghiên cứu và phổ biến về công ước này, bà Loan thừa nhận. Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương Võ Trí Thành lưu ý, muốn đề xuất tham gia Công ước Viên không hề đơn giản, từ việc dịch chuẩn xác công ước, những danh mục các bản án mà các quốc gia thành viên công bố cho đến việc tuyên truyền, nghiên cứu đưa ra những khuyến cáo cho doanh nghiệp về các nhóm vụ việc có thể vướng phải…
Tuy nhiên, ngay cả khi những nghiên cứu đưa ra những tác dụng tích cực từ việc tham gia công ước đã được chứng minh, một vị quan chức từ Bộ Tư pháp - người có nhiều năm kinh nghiệm trong đàm phán thương mại quốc tế - vẫn tỏ ra nghi ngờ và đưa ra những lý do e ngại cho việc khó xúc tiến ký kết đàm phán. Sự e ngại, sự kém nhiệt tình hay chính sự kém nhạy cảm trong nắm bắt những yêu cầu từ thực tế để từ đó xây dựng chính sách đón đầu là tâm lý vẫn còn khá phổ biến trong các cơ quan quản lý nhà nước. Thậm chí, một cán bộ chuyên đàm phán của Bộ NNPTNT còn thừa nhận, khối lượng công việc xây dựng chính sách trong thương mại quốc tế thuộc lĩnh vực của bộ nhiều đến nỗi bản thân cán bộ trực tiếp làm cũng không thể nhớ hết những gì mình đã từng làm. Vị này còn cho biết, có nhiều nhóm làm việc đến mức ngồi cạnh nhau mà không biết công việc của nhau. Vậy mà, ký kết các văn bản liên quan đến thương mại quốc tế, mảng nông nghiệp luôn là ưu tiên số một và cũng muôn phần rắc rối, liên quan đến nhiều bộ phận của nhiều bộ, ngành…, vị cán bộ này nói. Trong phạm vi một bộ đã khó như thế, vậy khi liên kết giữa các bộ ngành sẽ thế nào đây?
Bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế, bày tỏ quan ngại, đội ngũ kém chuyên nghiệp, kém liên thông sẽ khiến cho chất lượng các văn bản thương mại quốc tế không được như yêu cầu phải có. Đến giờ, chưa có đầu mối nào nghiên cứu những tác động của các thỏa thuận quốc tế đến đời sống kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam thế nào, điều gì cần cảnh báo, cần rút kinh nghiệm…, bà Lan nói.
Nhìn từ gốc vấn đề, ông Trần Hữu Huỳnh lý giải, quá trình xây dựng chính sách tham gia thương mại quốc tế của Việt Nam còn bất cập. Một đề xuất chính sách bị “ách” nói lên kênh thông tin đến những cấp thẩm quyển chưa được khai thông và điều đó đương nhiên tạo nên những “điểm nghẽn”. Muốn tháo gỡ cần phải có một chiến lược quốc gia về đàm phán, gia nhập các hiệp định thương mại quốc tế. Cần tìm ra những hiệp định ưu tiên xem xét. Nếu Bộ Chính trị ra nghị quyết về vấn đề này thì những “điểm nghẽn” trong thương mại quốc tế mới có thể tháo bỏ được, ông Huỳnh khuyến nghị.
Xây dựng hệ thống chính sách pháp luật trong thương mại quốc tế không thể là chuyện của một tổ chức hay cá nhân nào, nó đòi hỏi phải có sự đồng bộ, liên thông giữa nhiều cơ quan, ban ngành. Doanh nghiệp cũng cần có vai trò tích cực hơn trong đó. Nói như TS Nguyễn Tôn Quyền, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam, doanh nghiệp hiểu biết quá ít về các cam kết thương mại quốc tế của Việt Nam, và như vậy, cần có cơ chế thông tin cho doanh nghiệp cũng như cơ chế để doanh nghiệp tham gia đóng góp vào quá trình lựa chọn và đàm phán chính sách này.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Được đi tàu Hà Nội – TP.HCM chỉ hơn 5 giờ trong dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng (2030) không chỉ là mong muốn của Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Huỳnh Đảm mà còn là ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội khi thảo luận tại tổ về Dự án đường sắt cao tốc.
Theo công bố của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2010 tăng 0,27% so với tháng 4 và được coi là mức tăng thấp nhất nếu so với con số tương ứng cùng kỳ từ năm 2003 trở lại đây.
“Chừng nào nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý còn tìm cách khống chế giá nông sản, không trả nó về đúng bản chất thị trường thì chừng đó nhà nông và doanh nghiệp nông nghiệp sẽ còn gặp nhiều rủi ro”
Mặc dù nền kinh tế đang hồi phục mạnh mẽ, tạo đà cho việc hoàn thành Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, nhưng vẫn có thể có tới 10/23 chỉ tiêu không đạt mục tiêu đề ra, trong đó có nhiều chỉ tiêu cơ bản nhất về phát triển kinh tế.
Tạo bước chuyển biến rõ rệt về năng suất và chất lượng của các sản phẩm, hàng hóa chủ lực, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.