Cử tri đã kiến nghị xem xét, bãi bỏ quỹ bình ổn giá xăng dầu.
Kết quả giám sát của Ban Dân nguyện cho thấy không có căn cứ để lập quỹ bình ổn giá xăng dầu, mặc dù đại diện Bộ Tài chính cho biết đã có báo cáo đầy đủ về cơ sở để lập quỹ…
Một số nội dung cụ thể tại kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp Quốc hội thứ bảy chưa đạt được sự thống nhất cao tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chiều 1/10.
Tại đây, đại diện các bộ Tài chính, Công Thương, Y tế, Giáo dục và Đào tạo đều giải trình thêm về những vấn đề cụ thể tại báo cáo giám sát của Ban Dân nguyện, sẽ được trình Quốc hội tại kỳ họp tới.
Trưởng ban Dân nguyện Trần Thế Vượng cho biết, liên tục trong nhiều kỳ họp, cử tri đã có nhiều kiến nghị về các vấn đề liên quan đến hoạt động điện lực, việc lập quỹ bình ổn giá xăng dầu và việc kiểm tra, ngăn chặn, xử lý tình trạng gian lận trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu…, do không đồng tình với trả lời của các cơ quan có thẩm quyền.
Riêng với quỹ bình ổn giá xăng dầu, theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, được trích lập từ giá bán lẻ xăng dầu và để tại các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu, được hạch toán riêng và chỉ sử dụng vào mục đích bình ổn giá theo chỉ đạo của Bộ.
Bộ này cho biết, từ khi lập quỹ đến 30/7/2010 đã trích lập được trên 3.619 tỷ đồng, các doanh nghiệp đã được sử dụng gần 1.050 tỷ đồng vào việc bình ổn giá, hiện còn trên 2.569 tỷ đồng tồn trong tài khoản của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, một số doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng quỹ cho rằng việc lập, quản lý, sử dụng, hạch toán quỹ này hiện có nhiều bất cập, vướng mắc. Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam đề nghị quy định mức quỹ bình ổn giá hình thành bắt buộc tại doanh nghiệp tính trên doanh thu, được giới hạn phù hợp với yêu cầu bình ổn và đảm bảo tương quan hợp lý với lợi nhuận của doanh nghiệp (quy định hiện hành là không giới hạn).
Theo doanh nghiệp này, “hiện nay, việc trích lập quỹ chưa giải quyết bình ổn giá nhưng lại tác động tạo lợi thế cho các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi tích tụ một số vốn từ quỹ này để giảm vốn vay và từ đó lại tạo ra lợi thế cạnh tranh giá dẫn đến độc quyền - tiêu diệt cạnh tranh trong kinh doanh xăng dầu”.
Trong khi đó, cử tri đã kiến nghị xem xét, bãi bỏ quỹ bình ổn giá xăng dầu, vì cho rằng dù khi giá xăng dầu tăng hay giảm thì khách hàng vẫn phải trả thêm từ 300 - 500 đồng/lít để đưa vào quỹ. Song, việc quản lý, sử dụng quỹ cũng như việc khách hàng được hưởng lợi từ quỹ này như thế nào thì không rõ.
Đối chiếu với quy định của pháp luật, Ban Dân nguyện nhận thấy việc lập quỹ bình ổn giá xăng dầu chưa phù hợp với quy định của Pháp lệnh Giá. Bởi Điều 6 của Pháp lệnh Giá quy định cụ thể về các biện pháp bình ổn giá thì không có biện pháp lập quỹ bình ổn giá.
Theo ông Vượng, Bộ Tài chính đã giải trình việc lập quỹ căn cứ vào Điều 5 Pháp lệnh Giá. Nhưng Điều 5 quy định về mục tiêu bình ổn giá trong đó có quy định: “Nhà nước thực hiện các chính sách, biện pháp cần thiết tác động vào quan hệ cung cầu để bình ổn giá thị trường…”. Những biện pháp cần thiết được áp dụng để bình ổn giá được đề cập tại điều này đã được cụ thể hóa tại Điều 6 của Pháp lệnh mà không giao cho Chính phủ quy định.
Theo vị đại diện Bộ Tài chính có mặt tại cuộc họp thì Bộ đã có báo cáo phân tích đầy đủ cơ sở để lập quỹ này. Tuy nhiên, dẫn lại quy định tại Pháp lệnh giá, Trưởng ban Dân nguyện Trần Thế Vượng vẫn khẳng định “không có cơ sở” để lập quỹ này.
* Pháp lệnh Giá quy định:
Điều 5. Mục tiêu bình ổn giá: Nhà nước thực hiện các chính sách, biện pháp cần thiết tác động vào quan hệ cung cầu để bình ổn giá thị trường đối với những hàng hoá, dịch vụ quan trọng, thiết yếu, kiểm soát lạm phát, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước, góp phần khuyến khích đầu tư, phát triển.
Điều 6. Biện pháp bình ổn giá (1).Trường hợp giá thị trường của hàng hoá, dịch vụ quan trọng, thiết yếu có biến động bất thường thì Nhà nước sử dụng những biện pháp sau đây để bình ổn giá: (a) Điều chỉnh cung cầu hàng hoá sản xuất trong nước và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; hàng hoá giữa các vùng, các địa phương trong nước; (b) Mua vào hoặc bán ra hàng hoá dự trữ; (c) Kiểm soát hàng hoá tồn kho; (d) Quy định giá tối đa, giá tối thiểu, khung giá; (đ) Kiểm soát các yếu tố hình thành giá; (e) Trợ giá nông sản khi giá thị trường xuống quá thấp gây thiệt hại cho người sản xuất; trợ giá hàng hoá, dịch vụ quan trọng, thiết yếu khác.
(Nguồn: Báo cáo giám sát của Ban Dân nguyện của Quốc hội)
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Tất cả các câu chuyện của mình trong khi thế giới đang chuyển mình sau cuộc khủng hoảng. Việc tái cơ cấu kinh tế sau khủng hoảng. Bối cảnh thế giới làm cho việc chọn đường của chúng ta rất bức thiết. Chọn không đúng chúng ta sẽ bị đào thải.
Dự thảo Nghị định về tăng lương tối thiểu từ tháng 5/2011 dự kiến sẽ được phê duyệt trong tháng 10 này. Tuy nhiên, việc tăng lương lại không thu hút sự quan tâm của nhiều doanh nghiệp.
Theo Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, đầu tháng 11 sẽ có 1 Vinashin mang diện mạo mới. Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) cho rằng: Trước khi tái cơ cấu phải quy đến cùng đối với những ai, những cơ quan nào chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước, nhân dân.
Từ thực tế các tập đoàn, tổng công ty nhà nước không làm tròn vai trò bình ổn giá, có ý kiến cho rằng, cần phải xem xét lại việc “giao nhiệm vụ” cho các tổ chức này. Không thể vừa đảm bảo sản xuất kinh doanh hiệu quả, vừa làm thay cơ quan quản lý trong việc bình ổn giá.
Nghị quyết phát huy nội lực của tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã tạo ra sức tăng trưởng nhảy vọt cho các doanh nghiệp dịch vụ thành viên, nhưng đồng thời nó cũng lấy đi cơ hội tiếp cận một khách hàng rất lớn của các công ty ngoài ngành.
Cùng với Bangladesh, Ấn Độ, Madagascar, Nepal, Philippines, Zimbabwe, Myanmar, Campuchia, Thái Lan…, Việt Nam nằm trong số những nước bị biến đổi khí hậu đe dọa nhiều nhất.
Định hướng Phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 cần được chỉnh sửa và hoàn thiện theo hướng tập trung vào 3 "trụ cột" của phát triển bền vững là kinh tế, xã hội, môi trường.
Ông Đoàn Xuân Tiến, Hiệu trưởng Trường Trung cấp Nông nghiệp Hà Nội khẳng định: Làm nông nghiệp bây giờ không phải như xưa nữa, bởi nông thôn hiện nay là nông thôn theo mô hình mới. Công việc nhà nông không còn đơn thuần là lao động chân tay mà còn cần cả kiến thức, kỹ năng vận dụng cơ giới hóa, máy móc hiện đại và biết vận dụng khoa học, kỹ thuật tiên tiến vào lao động, sản xuất nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Vì thế, nhu cầu học làm nông nghiệp ngày càng tăng
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.