Xuất phát từ tình hình thực tế, nhiều chuyên gia cho rằng, để duy trì tăng trưởng ổn định và kềm chế lạm phát, không nên "mạnh tay" thay đổi chính sách.
Tại cuộc toạ đàm do Trường ĐH Kinh tế TPHCM tổ chức vào ngày 30.7, các chuyên gia kinh tế và các DN trong ngành tài chính, NH đã đóng góp nhiều ý kiến liên quan đến các chính sách về tín dụng, tỉ giá, lãi suất, kích cầu...
Giữ nguyên lãi suất cơ bản?
PGS- TS Trần Hoàng Ngân, thành viên HĐ Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, phó hiệu trưởng ĐH Kinh tế TPHCM, đặt vấn đề: Vừa qua, nhiều NH đua nhau tăng lãi suất huy động, đẩy lãi suất huy động ngắn hạn lên trên 9%. Liệu NHNN có nên tăng lãi suất cơ bản hay vẫn tiếp tục duy trì ở mức 7%?
Ông Ngân cho biết: Có một số NH thương mại nhỏ than rằng, nếu không tăng lãi suất cơ bản mà lại kiểm soát chặt tín dụng tiêu dùng, tức là kiểm soát chặt cho vay lãi suất thoả thuận, thì các NH sẽ thua lỗ nặng.
Tuy nhiên, một số đại diện NH thương mại có mặt tại hội thảo cho rằng lãi suất cơ bản hiện nay là phù hợp. Việc huy động vốn không gặp trở ngại trong trường hợp các thị trường chứng khoán, bất động sản ổn định, không quá nóng và tạo những cú sốc.
Việc kiểm soát chặt cho vay bất động sản cũng như cho vay tiêu dùng là đúng đắn, giúp cho các thị trường này không quá nóng. Trên thực tế thì một phần cho vay tiêu dùng hiện nay đang chạy vào chứng khoán. NHNN chỉ nên thay đổi lãi suất cơ bản trong trường hợp lạm phát tăng.
TS Lê Anh Tuấn - nhà nghiên cứu kinh tế - cho biết: Đã dùng nhiều kế hoạch mô phỏng để tính toán, kết quả cho thấy nếu các chính sách điều hành được duy trì ổn định thì có khả năng lạm phát trong năm nay không vượt quá 7,5%. Do đó, việc duy trì lãi suất cơ bản 7% là phù hợp.
PGS- TS Trần Hoàng Ngân cho rằng việc điều chỉnh tăng trưởng tín dụng từ tối đa 30% xuống còn 25- 27% là cần thiết, sau khi Quốc hội cho điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế xuống 5%. Tuy nhiên, trong trường hợp kinh tế có khả năng tăng trưởng cao thì tăng trưởng tín dụng trên 27% vẫn là tốt. Vấn đề cốt lõi là kiểm soát được chất lượng tín dụng, tập trung vào cho vay sản xuất kinh doanh.
Điều hành tỉ giá: Bài toán khó
Về tỉ giá, theo phản ánh của các NH và các nhà nghiên cứu, hiện áp lực ngoại tệ đang căng thẳng và tỉ giá thị trường tự do tăng cao. Trong hoàn cảnh này, NHNN không nên tăng biên độ tỉ giá, tạo tâm lý kỳ vọng giá USD sẽ tiếp tục tăng cao và dẫn đến găm giữ ngoại tệ.
Nhiều ý kiến cho rằng, NHNN cần ban hành quy định bắt buộc kết hối, nhưng phải đảm bảo cung ứng đủ USD cho doanh nghiệp nhập khẩu hàng thiết yếu và hàng phục vụ sản xuất.
Tổng giám đốc một NH CP nhận xét: Nếu tạo được tính sẵn có trên thị trường ngoại hối sẽ dẹp bỏ được tình trạng đầu cơ ngoại tệ và "dự trữ niềm tin quan trọng hơn là dự trữ ngoại tệ".
Tổng giám đốc một Cty CK cho rằng, dùng dự trữ ngoại hối kèm theo chính sách kết hối sẽ kiểm soát được tỉ giá ổn định. Bên cạnh đó, sử dụng Quỹ bình ổn xăng dầu trong thời điểm này cũng là rất cần thiết để kềm chế lạm phát.
Có nên ngừng kích cầu?
Một số chuyên gia đưa ra ý kiến cần xem xét và cắt giảm bớt danh sách hỗ trợ lãi suất của gói kích cầu đối với một số ngành hàng. Tuy nhiên, một lãnh đạo NH thương mại cho rằng, Chính phủ cần phải đánh giá thận trọng trước khi đi đến quyết định. Cần phân loại đối tượng doanh nghiệp và khảo sát, đánh giá hiệu quả của gói kích cầu đối với sản xuất kinh doanh, đối với thị trường lao động...
Một điều quan trọng mà các NH thương mại quan tâm là khi ngừng kích cầu, liệu sẽ có dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp không đủ khả năng hoàn vốn cho NH. Nếu ngừng gói kích cầu một cách đột ngột sẽ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp.
Giữ nguyên lãi suất cơ bản VND mức 7% năm
NHNN ngày 30.7 cho biết, Thống đốc NNHNN đã ban hành Quyết định số 1811/QĐ-NHNN về việc tiếp tục áp dụng mức lãi suất cơ bản bằng đồng VN là 7%/năm. Quyết định sẽ có hiệu lực từ hôm 1.8 và thay thế Quyết định số 1539/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng đồng VN ban hành ngày 30.6.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Báo cáo Giám sát Kinh tế châu Á (AEM) của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố ngày 23/7 dự báo GDP của Việt Nam năm 2009 tăng 4,5%, nhưng sẽ phục hồi mạnh vào năm 2010 với 6,5%.
Ngày 16-7, tại TP Ðà Lạt (Lâm Ðồng), Ban Chỉ đạo Tây Nguyên tổ chức hội nghị sơ kết thực hiện nhiệm vụ sáu tháng đầu năm 2009. Ðại tướng Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên dự và chỉ đạo hội nghị. Cùng chủ trì hội nghị có đồng chí Mai Văn Năm - Ủy viên T.Ư Ðảng, Phó trưởng ban Chỉ đạo Tây Nguyên, với sự tham dự đại biểu lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương, lãnh đạo năm tỉnh Tây Nguyên và sáu tỉnh có các huyện miền núi giáp Tây Nguyên.
Phóng viên TTXVN tại Hồng Công (Trung Quốc) dẫn kết quả một cuộc khảo sát của Tập đoàn Ngân hàng Hồng Công - Thượng Hải (HSBC) công bố trên mạng "Channel NewsAsia" ngày 15-7 đánh giá, có nhiều dấu hiệu tích cực cho thấy Việt Nam đang trên đường trở lại vị trí đối tác lý tưởng đối với các nhà đầu tư châu Á.
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành tháng 7 ước đạt 59,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3% so với tháng 6 và tăng 7,6% so với tháng 7/2008 (Riêng các doanh nghiệp thuộc Bộ Công Thương tăng 0,6% so với tháng 6 và tăng 13,0% so với tháng 7/2008). Tính chung 7 tháng ước đạt 382,7 nghìn tỷ đồng, tăng 5,1% so với cùng kỳ.
Triển khai gói kích cầu hỗ trợ lãi suất đầu tư cho DN của Chính phủ được kỳ vọng sẽ là phao cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, sự hỗ trợ này dường như chưa đạt hiệu quả, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng công nghiệp 6 tháng đầu năm mới chỉ đạt con số khiêm tốn 4,8%, xuất khẩu cũng tiếp tục ngập chìm trong khó khăn…
Sau khi đạt tốc độ tăng trưởng chỉ vỏn vẹn 3,1% trong quý 1/2009, thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây, thì đến quý 2, GDP bất ngờ tăng tốc và đạt 4,5%. Tính chung lại, GDP của Việt Nam sáu tháng đầu năm 2009 tăng 3,9%, thấp nhất trong một thập kỷ qua. Tại buổi họp báo công bố thống kê kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2009 của Tổng cục Thống kê, tổ chức ngày 1/7, nhiều thông tin liên quan đến con số tăng trưởng 3,9% đã được các chuyên gia của Tổng cục "hé mở".
Trong khi, hầu hết các nền kinh tế trên thế giới đều tăng trưởng âm. VN vẫn là 1 trong 13 nền kinh tế tăng trưởng dương. Nhìn chung hầu hết các ý kiến vẫn nhận định, năm 2009, Chính phủ có thể kiềm chế lạm phát dưới 10%. Bội chi ngân sách cũng là điều rất nhiều chuyên gia tỏ ra lo ngại. Quốc hội đã phải thông qua bộ chi ngân sách năm 2009 là 7%. Để kéo trở lại 5% cũng phải mất một thời gian dài và là cả một vấn đề. Việc miễn giảm thuế, giãn nợ cũng đang đặt ra nhiều khó khăn trong bảo đảm nguồn thu, cân đối vĩ mô.
Nhiều trong số trên 100 nhà nghiên cứu, quản trị doanh nghiệp, ngân hàng dự cuộc họp lấy ý kiến về hiệu quả gói giải pháp kích cầu của Chính phủ, do hội các Nhà Quản trị DN Việt Nam tổ chức, cho rằng, hiệu quả đã rõ nhưng còn khiêm tốn.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.