Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

TPHCM tái cấu trúc kinh tế: Hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu, tăng tính cạnh tranh

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được xem là một trong những giải pháp hàng đầu để TPHCM chủ động hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010. Đây cũng là chìa khóa để TPHCM nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh, thể hiện vai trò đầu tàu kinh tế cả nước.

 

Sản xuất tivi LCD tại Công ty cổ phần Điện tử Tân Bình. Ảnh: CAO THĂNG

Chuyển dịch đúng định hướng

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng những nhóm ngành công nghiệp, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao trong cơ cấu sản phẩm đã được TPHCM đề ra và thực hiện trong 10 năm qua. Trong đó, TP đã định hướng 4 nhóm ngành công nghiệp (gồm cơ khí; điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin; hóa chất - nhựa - cao su; chế biến tinh lương thực - thực phẩm) và 9 nhóm ngành dịch vụ (gồm tài chính - ngân hàng - tín dụng - bảo hiểm; thương mại; vận tải, dịch vụ cảng - kho bãi; bưu chính - viễn thông; công nghệ thông tin; kinh doanh tài sản, bất động sản; tư vấn, khoa học - công nghệ; du lịch; y tế, giáo dục và đào tạo) để thúc đẩy tốc độ tăng trưởng cao hơn so với mức tăng bình quân của các nhóm hàng hóa khác. Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế là nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh, để kinh tế TPHCM thể hiện được vai trò một đầu tàu kinh tế của cả nước.

Theo nhận định của Sở KH-ĐT TPHCM, qua 5 năm triển khai thực hiện, chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã góp phần thúc đẩy cơ cấu kinh tế TP phát triển theo hướng tích cực; đã có sự chuyển biến theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành dịch vụ, giảm dần tỷ trọng các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, dần đưa TP trở thành trung tâm thương mại - dịch vụ, công nghiệp - công nghệ cao của cả nước. Nội bộ các ngành kinh tế cũng đã có sự chuyển dịch tích cực, tăng tỷ trọng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao; giảm các ngành nghề thâm dụng lao động, gây ô nhiễm môi trường, dần hình thành các loại hình dịch vụ chất lượng cao.

Trong 4 nhóm ngành công nghiệp, tỷ trọng đã nâng lên từ 45% lên gần 60% tổng giá trị sản phẩm công nghiệp toàn TP. Bất chấp suy giảm kinh tế giai đoạn 2008 - 2009, dịch vụ thương mại vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng rất cao, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu kinh tế của TPHCM với 54,5%, dự kiến năm 2010 sẽ tiếp tục tăng và chiếm 55,2% GDP. Điều này cho thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung và cơ cấu các ngành dịch vụ, công nghiệp tiếp tục theo đúng định hướng của thành phố.

Cần tạo bước đột phá

Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ nêu trên, tại hội thảo “Đánh giá tác động 3 năm gia nhập WTO và tái cấu trúc kinh tế TPHCM” do Trung tâm Hỗ trợ hội nhập WTO TPHCM tổ chức vừa qua, ông Nguyễn Văn Hùng, Phó Giám đốc Sở KH-ĐT TPHCM, đã chỉ ra rằng, chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp và các lĩnh vực dịch vụ chưa cao. Các chính sách, giải pháp hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ban hành chưa đủ mạnh, chưa tạo được sự đột phá; chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế còn chậm.

Trong từng lĩnh vực tuy đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, nhưng nhiều nhiệm vụ trọng tâm vẫn chưa được hoàn thành. Theo nhận định của TS Nguyễn Xuân Thành, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright: “Những kết quả đạt được cũng như việc chuyển dịch kinh tế này là do quá trình tự nhiên phù hợp với lợi thế của TPHCM, chứ không phải do chính sách thúc đẩy”.

Sản xuất bóng đèn tại Công ty cổ phần Bóng đèn Điện Quang. Ảnh: CAO THĂNG

Cùng quan điểm trên, TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, cũng cho rằng, 10 năm qua TPHCM đã thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu để tạo giá trị gia tăng cao, nhưng thực chất các ngành công nghiệp vẫn rơi vào vòng luẩn quẩn. Công nghiệp điện tử, viễn thông chưa thực sự phát triển. Tỷ trọng các doanh nghiệp (DN) sản xuất sản phẩm cơ khí chính xác, các máy công cụ chuyên dùng, các loại trang thiết bị điện tử sử dụng công nghệ, thiết bị kỹ thuật cao chưa nhiều. Hoạt động nghiên cứu và phát triển tại các DN chưa thực sự được đầu tư đúng mức. Các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may đã có chuyển dịch dần ra các tỉnh, nhưng vẫn chưa phát triển theo chiều sâu, như khâu thiết kế-tạo mẫu, xây dựng thương hiệu thời trang,…

Giải pháp đồng bộ và sự đồng thuận

Trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển giai đoạn 2011-2015, TPHCM xác định tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh phù hợp với vai trò, vị trí của TP đối với khu vực phía Nam và cả nước. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng; trong đó lấy chất lượng để định hướng cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với đặc điểm của một nền kinh tế đô thị lớn.

Đối với cơ cấu ngành, tiếp tục thực hiện chuyển dịch theo hướng ngành dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Phát triển mạnh các ngành dịch vụ để TPHCM trở thành trung tâm về dịch vụ - thương mại - tài chính lớn của cả nước và của khu vực. Tiếp tục tập trung vào 9 ngành dịch vụ đã được xác định từ Đại hội Đảng bộ lần thứ VIII (gồm tài chính, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm; thương mại; vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng; bưu chính - viễn thông và công nghệ thông tin - truyền thông; kinh doanh tài sản - bất động sản; dịch vụ thông tin tư vấn, khoa học - công nghệ; du lịch; y tế; giáo dục - đào tạo).

Trong lĩnh vực công nghiệp, tiếp tục tập trung phát triển 4 ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ cao và giá trị gia tăng lớn, đồng thời lựa chọn một số công đoạn có giá trị gia tăng cao trong các ngành công nghiệp truyền thống để đầu tư, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu... Trong lĩnh vực nông nghiệp, tập trung phát triển nông nghiệp đô thị theo hướng công nghệ cao, hiện đại, bền vững gắn với du lịch sinh thái.

Với chương trình này, TPHCM kỳ vọng sẽ góp phần đảm bảo chỉ tiêu tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 đạt bình quân 11%/năm, trong đó khu vực dịch vụ sẽ có tốc độ tăng trưởng cao nhất, đạt bình quân 12,3%/năm; công nghiệp và xây dựng tăng 9,6%/năm; nông lâm ngư nghiệp tăng 4,0%/năm. Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một chương trình mang tính tổng hợp. Để thực hiện hiệu quả phải có sự giúp đỡ của các bộ ngành trung ương trong triển khai đề án cạnh tranh quốc gia, trong quy hoạch, đầu tư phát triển kinh tế vùng và sự hỗ trợ của các địa phương trong khu vực.
 

Lực đẩy từ chính sách vĩ mô

Đâu là nguyên nhân khiến chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TPHCM chưa đạt như mong muốn? Chính sách vĩ mô đóng vai trò như thế nào trong quá trình chuyển dịch? TPHCM sẽ phải làm gì trong định hướng phát triển kinh tế giai đoạn 2011-2015? PV Báo SGGP đã trao đổi với TS Trần Du Lịch, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội TPHCM, để làm rõ những vấn đề này. Ông Lịch nhận định:

 Có 3 lý do khiến chương trình chuyển dịch kinh tế của TPHCM bị chậm. Thứ nhất, để kinh tế chuyển dịch phải tùy thuộc rất lớn vào chính sách vĩ mô như thuế, tín dụng, ngoại hối, sử dụng đất… Chính sách đúng sẽ tác động và thúc đẩy doanh nghiệp (DN) vận hành theo hướng tích cực.

Thứ hai, về chủ quan, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đô thị tùy thuộc vào quy hoạch phát triển đô thị. Nếu làm tốt hạ tầng, kết cấu giao thông thông suốt sẽ kéo theo sự phát triển các ngành kinh tế.

Thứ ba là nguồn nhân lực. TP đang hướng đến các ngành kỹ thuật cao nhưng nguồn nhân lực kỹ thuật cao vừa bị thiếu vừa yếu. Sự kết hợp giữa TP với các đơn vị đào tạo để tạo nguồn lao động phù hợp chưa tốt. Cả 3 yếu tố này chưa làm tốt đã kéo chậm sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TP trong 5 năm qua.

Gắn với quy hoạch đô thị

* PV:Ngoài chuyển dịch chậm, thực tế trong 4 nhóm ngành và 9 lĩnh vực dịch vụ có đến gần một nửa chưa đạt chỉ tiêu, yêu cầu đặt ra?

* TS TRẦN DU LỊCH:Đúng vậy. Chúng ta đã sớm đặt vấn đề phát triển y tế kỹ thuật cao, nông nghiệp kỹ thuật cao, giáo dục chất lượng cao nhưng việc triển khai các ngành này gần 10 năm nay vẫn chưa phát huy tác dụng đáng kể trong đời sống kinh tế.

Nhà nước muốn chuyển dịch theo hướng có giá trị gia tăng cao nhưng DN chỉ hướng đầu tư vào những gì thuận lợi và mang lại lợi nhuận cao nhất mà thôi. Thí dụ, nếu nhà nước hướng vào ngành cơ khí thì phải có chính sách đòn bẩy và DN thấy có lợi thì họ mới đầu tư. Trên thực tế, TP đã quy hoạch khu công nghiệp cơ khí ở Củ Chi. Nhưng việc kết nối giao thông của khu vực này với TP và cả khu vực phía Nam thì chưa làm được, do đó việc thu hút đầu tư vào đây gặp nhiều khó khăn. Tôi cho rằng, vai trò nhà nước là hỗ trợ gián tiếp, thông qua việc đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo cơ chế chính sách và quản lý để các ngành phát triển. Làm được điều này, chắc chắn sẽ giảm chi phí, hấp dẫn DN hơn là việc nhà nước hỗ trợ trực tiếp.

Xây dựng chính sách vĩ mô phù hợp

* Theo ông có cần một cơ chế đặc thù để TPHCM phát triển đúng tầm vóc?

* Với các chính sách vĩ mô chung được ban hành, nếu địa phương nào có điều kiện phù hợp thì nơi đó sẽ phát triển nhanh hơn. Ví dụ, trung ương có chính sách hỗ trợ cho 4 ngành công nghiệp (cơ khí; điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin; hóa chất - nhựa - cao su; chế biến tinh lương thực - thực phẩm) về đào tạo nhân lực, phát triển hạ tầng để giảm thiểu chi phí… Nếu địa phương có điều kiện và tận dụng được các ưu đãi này chắc chắn sẽ thành công. Có thể hiểu chính sách vĩ mô như một dòng nước, nơi nào tạo được vùng trũng nước sẽ chảy vào.

* Nhưng chính sách vĩ mô đã làm được điều đó chưa, thưa ông?

* Chưa làm được. Ví dụ, chỉ một chương trình hỗ trợ phát triển công nghiệp phụ trợ nhưng đến nay vẫn chưa ban hành. Cái gốc của việc chuyển đổi kinh tế là phải đi từ công nghiệp gia công sang sản xuất. Muốn sản xuất được thì phải đi nhập công nghệ về chuyển hóa thành công nghệ của mình để sản xuất các linh kiện, phụ kiện và thu hút các DN nhỏ vào làm.

Ngay như thị trường bất động sản của TP đang phát triển một cách rối lọan nhưng đến nay chúng ta vẫn chưa có một định chế nào để khai thông giữa thị trường tài chính và bất động sản. Hiện tất cả các DN mới chỉ thực hiện tạo vốn từ kênh đi vay các ngân hàng thương mại. Khi chính sách tiền tệ nới lỏng thì thị trường trở nên sôi động, nhưng khi siết chặt lại thì “đóng băng” ngay. Vậy chính sách cho thị trường là phải tạo định chế để DN lập ra các quỹ đầu tư tín thác bất động sản (BĐS), kêu gọi các cá nhân tham gia để tạo sự ổn định, kinh doanh bài bản. Về nguyên tắc, nếu lập được các quỹ đầu tư tín thác BĐS thì lĩnh vực này sẽ phát triển an toàn, lành mạnh hơn và nhà nước cũng đỡ thất thoát thuế.

Cần một đường băng cất cánh

* TPHCM sẽ làm gì để hỗ trợ tốt nhất cho các DN góp phần tạo ra giá trị gia tăng cao và phát triển bền vững?

* Trước hết phải thay đổi tư duy về hỗ trợ. Theo tôi, có chính sách đòn đẩy đúng sẽ tác động đến thị trường, thị trường sẽ tác động đến các DN. Như TP đã hỗ trợ trực tiếp về chủ trương di dời các DN sản xuất ra ngoại thành vào năm 1999-2006. Nếu DN nào di dời sẽ được hỗ trợ vốn vay. Một số chương trình phát triển y tế, văn hóa và giáo dục cũng có hỗ trợ trực tiếp. Ngoài ra, còn phải sử dụng công cụ hỗ trợ gián tiếp như nhà nước đầu tư chi phí để phát triển hạ tầng giao thông, xây dựng các khu công nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực, tổ chức tiếp thị quốc tế… Hiện nay cả nước nói chung, TPHCM nói riêng đang bước vào cuộc cạnh tranh toàn cầu, cạnh tranh quốc gia và cạnh tranh về sản phẩm. Nếu uy tín của TPHCM nâng lên thì thương hiệu của DN trên địa bàn TPHCM cũng được nâng lên.

* Theo ông, trong định hướng 5 năm tới và cụ thể trong Đại hội Đảng bộ lần thứ IX, TPHCM cần làm những gì để đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế?

* Tôi cho rằng, đại hội lần này sẽ tập trung vào 2 vấn đề, đó là nâng cao chất lượng tăng trưởng và xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng. Vấn đề này rất quan trọng, nó sẽ tạo đường băng để kinh tế TP cất cánh. Để thực hiện được, TPHCM một mặt phải triển khai phần việc trong thẩm quyền của mình và phải tiếp tục kiến nghị với trung ương về các chính sách tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp và lĩnh vực dịch vụ phát triển. Liên quan đến chương trình chuyển đổi kinh tế theo hướng gia tăng giá trị, chẳng hạn ngành may có nên tiếp tục duy trì tại TPHCM? Tôi cho rằng chúng ta vẫn tiếp tục nhưng cách làm phải khác, là phải hướng đến việc phát triển về thời trang, về thương mại, tiếp thị sản phẩm, hướng đến chuỗi giá trị cao nhất của ngành may, chứ không nên tổ chức cho hàng trăm, hàng ngàn công nhân ngồi may máy. Tương tự, các ngành gỗ, da giày cũng phải từng bước hướng đến các chuỗi giá trị sản phẩm.

Chuyển đổi cơ cấu kinh tế là giảm đoạn giữa (gia công, lắp ráp) và tăng 2 đầu (thiết kế mẫu mã, nguyên phụ liệu và phát triển hệ thống phân phối) trong chuỗi giá trị sản phẩm. Tuy nhiên, để chuyển đổi kinh tế thành công, phải tùy thuộc rất lớn vào các chính sách vĩ mô. Nói cách khác, chính sách vĩ mô thông qua các công cụ điều tiết đóng vai trò là “người dẫn đường” cho quá trình tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế.

* Xin cảm ơn ông!

 

 

( Theo Thúy Hải // Báo SGGP Online )

  • Đấu thầu qua mạng: Minh bạch hóa mua sắm công
  • Khoảng doãng
  • "Gác giữ màu xanh" cho vườn quốc gia Phước Bình
  • Kinh tế Việt Nam về đích cần vượt 3 chướng ngại
  • Người nước ngoài nói gì về kinh tế Việt Nam?
  • Liên kết để phát triển Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
  • Tăng ngân sách cho Hà Nội: Nhất thời hay thường xuyên?
  • Môi trường kinh doanh tại Việt Nam xếp hạng 11 từ dưới lên
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi