Nhiều chuyên gia bày tỏ lo ngại khả năng Việt Nam khó thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình trong Hội thảo “Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam" do UB Kinh tế tổ chức sáng 23/6. Cần quyết tâm chính trị lớn
Trình bày tham luận tại Hội thảo, GS Kenichi Ohno nhấn mạnh tăng trưởng chỉ dựa vào tài nguyên thiên nhiên, luồng vốn FDI hay lợi thế vị trí địa lý thì sớm muộn gì cũng sẽ đến hồi kết.
"Việt Nam đã đạt đến một mức phát triển mà tại đó tăng trưởng hướng tới mức thu nhập cao hơn sẽ không thể được bảo đảm nếu như không đổi mới đáng kể quá trình hoạch định chính sách nhằm phát huy tiềm năng đầy đủ của đất nước", GS Ohno nói.
Với tiềm năng và lợi thế của mình, Việt Nam có thể sẽ còn được hưởng một nhịp độ tăng trưởng ấn tượng trong một thời gian nữa. Thế nhưng, nếu không có một công cuộc phát triển thần kỳ trong những thập kỷ tới, Việt Nam dường như sẽ chịu chung số phận như đã thấy ở nhiều nước đang phát triển Theo GS Ohno, tăng trưởng mà Việt Nam có được trong một thập kỷ rưỡi vừa qua là do tác động của tự do hoá đúng thời điểm và sức mua từ các nước khác đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.
"Nhưng hiện nay, với quá trình chuyển đổi một cách có hệ thống và sự hội nhập toàn cầu ngày càng trở nên sâu sắc, Việt Nam cần xây dựng giá trị nội tại để tiếp tục tăng trưởng và tránh rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”", GS Ohno cảnh báo.
Chia sẻ nhận định này, TS Vũ Thành Tự Anh nêu lên thực tế tất cả các nước Đông Á thành công như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... đều duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian rất dài khoảng 30 năm hoặc hơn nhưng Việt Nam chưa làm được điều đó.
Ông Tự Anh cho rằng muốn làm được như thế thì nguồn lực phải được phân bổ một cách hiệu quả, cụ thể khu vực nào có hiệu quả nhất của nền kinh tế thì phải được phân bổ một cách tương ứng.
"Nếu chúng ta chọn khu vực kém hiệu quả nhất làm động lực tăng trưởng, làm chủ đạo thì chúng ta phải chấp nhận đi chậm thôi", TS Vũ Thành Tự Anh nói.
Chuyên gia đến từ Fulbright Việt nam cũng nhấn mạnh tất cả các nền kinh tế muốn thành công đều phải có cạnh tranh, ở đây là cạnh tranh trong nước và cạnh tranh với nước ngoài.
Nhưng ở VN thay vì việc bắt các tập đoàn cạnh tranh, DNNN cạnh tranh thì Nhà nước lại tạo ra những sân chơi riêng cho họ, giúp họ có được vị thế độc quyền trong thị trường nội địa, vì thế không có sức ép để doanh nghiệp đổi mới, phát triển.
Ở trạng thái như hiện nay, TS Vũ Thành Tự Anh cho rằng "Việt Nam nên phát triển khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ mà không nên tập trung quá nhiều vốn cho các doanh nghiệp nhà nước. Nền tảng của Việt Nam phải là các doanh nghiệp dân doanh".
Và khi xác định được điều đó thì các chính sách liên quan đến nó phải nhất quán tạo điều kiện cho khu vực kinh tế này phát triển vì theo ông một thực tế ở VN là nhiều khi một chính sách rất tốt nhưng đến khi thực hiện cụ thể thì vì lợi ích đặc quyền đặc lợi của một số nhóm nó có thể bị biến dạng.
"Để làm được điều đó thì phải có một quyết tâm chính trị rất lớn và phải có một hệ thống chiến lược chính sách nhất quán và hệ thống thực thi ở dưới nó phải được cấu hình theo cách để hỗ trợ chứ không phải phá vỡ quy hoạch ấy", TS Vũ Thành Tự Anh kết luận.
Đổi mới thể chế trong bối cảnh các nhóm lợi ích đã hình thành
TS Võ Trí Thành trong tham luận tại Hội thảo khẳng định để có thể tránh được nguy cơ tụt hậu, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, phát triển bền vững, VN cần có những định hướng rõ hơn cho mô hình phát triển đất nước.
"Bài toán tổng thể ở đây chính là việc nâng cao năng lực thể chế, năng lực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, và năng lực liên kết quốc tế để có thể đón bắt và tận dụng cơ hội có được, mô hình phát triển đảm bảo tốt các yêu cầu đó chính là lựa chọn đầy thách thức đối với VN", ông Thành nhấn mạnh.
GS Võ Đại Lược cũng cho rằng sự chuyển đổi về thể chế là quan trọng nhất, "Nhưng để đổi mới thể chế thì phải đổi mới tư duy trong đó đổi mới tư duy của lãnh đạo cấp cao, những người đứng đầu đất nước là quan trọng nhất".
Theo GS Lược, khái niệm thể chế trong nghĩa rộng có 3 lĩnh vực bao gồm hệ thống luật lệ, bộ máy điều hành và phương thức điều hành của nhà nước.
Ông Lược đánh giá Việt Nam đang thay đổi nhưng rất chậm so với yêu cầu phát triển của đất nước.
Ông cho rằng những nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội đã hình thành và những nhóm lợi ích khác nhau thì yêu cầu đổi mới thể chế cũng khác nhau và thậm chí xung đột nhau.
Lợi ích của các nhóm đó không phải khi nào cũng đồng nhất với lợi ích phát triển của quốc gia, của đất nước, do vậy mà khó để có thể hình thành một sự nhất trí về mặt tư duy và thể chế.
Vẫn nặng bản sắc của ý chí
Còn trong bài viết gửi đến Hội thảo của mình, TS Vũ Minh Khương lại bày tỏ sự lo lắng: "Chiến lược phát triển của Việt Nam dường như vẫn dựa trên nguyên lý chủ yếu là hối thúc đầu tư từ nguồn ngân sách đến nguồn FDI, trong khi coi nhẹ hiệu lực chiến lược, hiệu quả kinh tế, và tính bền vững của nền móng phát triển".
Kết quả là, các dự án lớn như mía đường, xi măng lò đứng, lọc dầu Dung Quất trong thời gian qua không chỉ gây lãng phí rất lớn mà còn làm đất nước mất đi nhiều cơ hội nâng cấp thực lực cạnh tranh.
Ông Khương cũng cho rằng các đại dự án tới đây như mở rộng thủ đô Hà nội, xây dựng nhà máy điện hạt nhân, và xây dựng các tuyến tàu hỏa cao tốc dường như vẫn mang nặng bản sắc của ý chí hơn là bước đi khôn ngoan hoạch định bởi một tầm nhìn sâu rộng và tư duy chiến lược.
Một góc độ khác của sự hạn chế trong tầm nhìn và tư duy chiến lược mà TS Vũ Minh Khương cũng chỉ ra ở đây là chúng ta chưa quyết liệt cải cách và kiến tạo môi trường kinh doanh binh đẳng cho các doanh nghiệp quốc doanh.
"Nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục hoạt động với sự dung túng trong bao cấp, tùy tiện trong quản lý điều hành, thiếu trung thực trong báo cáo", ông Khương khẳng định.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2 chỉ tiêu kinh tế - xã hội quan trọng là tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và chỉ số giá tiêu dùng trong 6 tháng đầu năm 2010 đều khả quan.
Dự án Quỹ Tiên phong Việt Nam (VNCF) là sáng kiến được Quỹ Ford ủng hộ và tài trợ cho giai đoạn thử nghiệm, do Viện phát triển doanh nghiệp (Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam) quản lý. Dự án hoạt động từ tháng 3-2008, tập trung vào các lĩnh vực: Nông sản, chăn nuôi và chế biến ; Thủ công-mỹ nghệ ; Dịch vụ-đào tạo.
Ngày 20/5, phát biểu tại Diễn đàn Tương lai châu Á lần thứ 16 ở thủ đô Tokyo của Nhật Bản, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân khẳng định "phát triển xanh" cần và phải là một hướng ưu tiên trong kế hoạch tái cơ cấu kinh tế của các nước châu Á và trên thế giới.
Ít ngày sau phiên họp của các nhà tài trợ tại Kiên Giang, báo chí nước ngoài dồn dập đăng bài đánh giá môi trường đầu tư tại Việt Nam, với những lời nhận xét khá tích cực.
Đánh giá về tác động sau 3 năm Việt Nam gia nhập WTO tại hội thảo do Văn phòng Chính phủ tổ chức hôm qua (24-5), các bộ, ngành, chuyên gia đều có chung nhận định việc gia nhập WTO đã có nhiều tác động tích cực đối với Việt Nam trong việc hoàn thiện khung pháp lý, môi trường kinh doanh minh bạch hơn… Song hội nhập cũng khiến Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức từ bên ngoài ngày càng lớn.
"Việt Nam cần một cách tiếp cận mang tính chiến lược hơn để xây dựng và phát triển các tài sản và năng lực nhằm giúp quốc gia tìm được con đường và vị thế riêng trong nền kinh tế toàn cầu, hơn là biến thành một chủ thể để các lực đẩy bên trong và bên ngoài dẫn dắt, đưa tới tình trạng khó kiểm soát", Tiến sĩ Chirstian Ketel, Học viện Cạnh tranh Châu Á (ACI), Trường Chính sách công Lý Quang Diệu (Singapore) nói.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.