Bắt đầu từ tháng 7/2011, thị trường phát điện cạnh tranh sẽ chính thức được vận hành thí điểm, mở đầu cho việc tiến tới thị trường điện cạnh tranh hoàn chỉnh vào năm 2022.
Kỳ vọng của người tiêu dùng là thông qua cạnh tranh, giá điện và chất lượng phục vụ sẽ theo hướng có lợi cho khách hàng. Còn với nhà đầu tư, việc tiến hành theo cơ chế thị trường, có sự cạnh tranh bình đẳng cũng là cơ hội cho họ “chen chân” vào lĩnh vực vốn từ trước tới nay vẫn được cho là độc quyền của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).
Tuy nhiên, trao đổi với VnEconomy, TS. Đàm Xuân Hiệp, Tổng thư ký Hiệp hội Điện lực Việt Nam, Hiệu trưởng Đại học Điện lực, lại cho rằng, để chen chân được vào ngành điện không phải là chuyện dễ.
Ông Hiệp nói:
- Theo chỉ đạo của Chính phủ, thị trường điện Việt Nam sẽ được phát triển theo 3 cấp độ, bao gồm phát điện cạnh tranh, bán buôn điện cạnh tranh và cuối cùng bán lẻ điện cạnh tranh dự kiến từ năm 2022.
Việc Chính phủ chấp thuận vận hành thị trường phát điện cạnh tranh từ tháng 7 tới là hợp lý bởi sau nhiều năm vận hành theo cơ chế độc quyền, thị trường buộc phải dừng lại để quan sát, xem xét thêm hoặc hoàn chỉnh về mặt cơ chế.
Trước đây, không phải tự nhiên mà ngành điện được xem là độc quyền “tự nhiên”. Nó độc quyền “tự nhiên” bởi ôm cả ba khâu phát điện, truyền tải và phân phối cùng ở trong một công ty mẹ là EVN. Tuy nhiên, đến nay, ngành điện đã nảy sinh nhiều bất cập, do vậy nên mới có chủ trương thị trường hóa.
Thưa ông, thực ra những bất cập trong việc để EVN độc quyền trong một thời gian dài không phải là cơ quan quản lý không nhận ra. Nhưng tại sao, chúng ta chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp đã khá lâu trong khi ngành điện vẫn chưa thể “tư nhân hóa” được?
Thực ra từ nhiều năm trước đã có nhiều ý kiến thắc mắc điều này rồi. Tuy nhiên, có nhiều người vì họ không hiểu được bản chất của kỹ thuật ngành điện và kinh tế, nên mới có chuyện đó.
Để đầu tư một dự án hay một nhà máy điện lớn, thường phải tốn từ 300 - 500 triệu USD. Với số vốn trên, ngay các doanh nghiệp tư nhân lớn của Việt Nam cũng không đủ tiền để đầu tư một dự án điện. Do đó, giả dụ chúng ta có “thả” ra từ dăm năm trước thì chưa chắc họ đã làm được.
Hơn nữa, nếu có đủ vốn thì chắc gì họ đã “mặn mà”, vì lỗ lãi ngành điện họ vẫn chưa thể tường tận hết được.
Chính vì vậy, việc hô hào cạnh tranh để tiến đến cạnh tranh bán buôn, cạnh tranh bán lẻ là cả một quá trình dài. Vấn đề là làm sao để người tiêu dùng được hưởng một mức giá hợp lý, và không để một doanh nghiệp nào độc quyền thao túng thị trường, đẩy giá lên.
Vậy nếu việc đầu tư vào ngành điện gặp rào cản về vốn, tức là dù có cho phép cạnh tranh thì EVN vẫn là “anh cả” với nhiều lợi thế và đặc quyền vượt trội?
Thực ra, EVN cũng đã phải tính đến việc không sớm thì muộn thị trường điện cũng phải vận hành theo cơ chế thị trường. Chính vì vậy, họ cũng đã thành lập ban thị trường điện từ mấy năm nay để lo chuyện này. Bên cạnh đó, chúng ta còn có Cục Điều tiết điện lực nữa nên rõ ràng mục tiêu xóa độc quyền là khá rõ ràng.
Hiện tại chúng ta đang bắt đầu triển khai giai đoạn cạnh tranh phát điện, đồng thời cũng đã tách độc lập khối truyền tải và cho thành lập các tổng công ty phân phối, tổng công ty phát điện…
Đặc biệt, Chính phủ cũng đã có chỉ đạo yêu cầu EVN phải tái cơ cấu nhằm nâng cao hiệu quả của tập đoàn này và đưa ngành điện phát triển bền vững, ổn định thì những quan ngại về hai chữ “độc quyền” sẽ theo đó mà giảm đi nhiều.
Thực tình thì tỷ suất lợi nhuận của ngành điện hiện nay có đủ hấp dẫn các nhà đầu tư?
Có hai vấn đề chính quyết định đến dòng vốn của các nhà đầu tư có đổ vào ngành điện hay không, đó là quá trình đầu tư có thuận tiện không và lợi nhuận thu về có thỏa đáng không.
Tuy nhiên, cả hai vấn đề này đều là những câu hỏi chưa thể giải quyết được trong một sớm một chiều. Tuy nhiên, ngoài các yếu tố khác thì đưa vận hành thị trường điện cạnh tranh sẽ là tiền đề rất quan trọng, bởi khi cạnh tranh, giá điện sẽ tăng lên hoặc giảm đi tùy theo từng thời điểm do quy luật cung cầu quyết định.
Khi điện trên thị trường thiếu, ắt giá sẽ tăng lên và vì thế nhiều người sẽ bỏ tiền xây dựng các nhà máy điện và ngược lại. Dĩ nhiên, với cơ chế giá như hiện nay, giá điện bị khống chế đã khiến trong một thời gian dài không có nhà đầu tư nào quan tâm đến lĩnh vực này.
Cũng không phải tự nhiên mà sau dự án điện Phú Mỹ, không có bất kỳ công ty nước ngoài nào đến Việt Nam để xây dựng các nhà máy điện.
Theo ông liệu có công bằng không khi doanh nghiệp nhỏ gần như không có đủ vốn để đầu tư dự án điện lớn, trong khi trong Đề án thị trường phát điện cạnh tranh, chỉ các nhà máy điện có công suất từ 30MW trở lên có đấu nối vào lưới điện quốc gia mới được được tham gia phát điện cạnh tranh?
Đúng là có bất lợi cho các doanh nghiệp nhỏ thật, nhưng đây chỉ mới là giai đoạn thí điểm. Trong thực tế, việc định ra giới hạn công suất được tham gia chào giá luôn được các nước áp dụng chứ không gì ở nước ta. Vấn đề khác nhau chỉ là ở ngưỡng công suất tham gia là bao nhiêu.
Hiện trên cơ sở thực tế của hệ thống điện cũng như các tính toán và cân nhắc, cơ quan chức năng đưa ra mức công suất là 30 MW. Nhưng tới đây nếu trình độ khoa học công nghệ càng cao hoặc kinh nghiệm vận hành thị trường càng nhiều thì ngưỡng công suất sẽ càng thấp.
Từ nay đến khi có thị trường cạnh tranh bán lẻ còn khá xa. Theo ông làm thế nào để có thể hạn chế được tính “độc quyền” khi EVN vẫn đảm nhận cả hai vai vừa mua, vừa bán điện?
Tôi nghĩ không phải là hạn chế độc quyền mà là hạn chế các mặt không tích cực của độc quyền. Trong thực tế, độc quyền trong ngành điện từng được xem là tự nhiên do đặc tính của “kinh tế quy mô”, nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên giờ đây tính tự nhiên đó không còn phù hợp nữa.
Tuy nhiên để thực hiện cạnh tranh thì phải hội tụ đủ các điều kiện cho nó. Vì vậy, một khi chưa thể có cạnh tranh hoàn toàn thì chúng ta phải có các cơ chế, quy chế nhằm kiểm soát độc quyền như các nước vẫn thường làm. Chẳng hạn như buộc phải công khai các thông tin, phải có sự kiểm tra kiểm toán độc lập.
Nhiều nước trên thế giới hiện nay họ vẫn áp dụng cách thức là tin vào sự khai báo chính xác của doanh nghiệp và tự chịu trách nhiệm với các thông tin của mình. Sau đó, nếu thẩm tra mà phát hiện sai thì sẽ xử lý theo pháp luật. -------------------------------------------- Tác giả: Bảo Anh Nguồn: vneconomy
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Bắt đầu từ tháng 7/2011, thị trường phát điện cạnh tranh sẽ chính thức được vận hành thí điểm, mở đầu cho việc tiến tới thị trường điện cạnh tranh hoàn chỉnh vào năm 2022.
Khống chế lãi suất cho vay có thể gây méo mó hoạt động ngân hàng, nới trần lãi suất huy động tiền đồng lúc này không khả thi vì lạm phát đang có xu hướng giảm, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước khẳng định chiều 26/5.
"Hơn chục năm nay các ngân hàng đã đầu tư rất lớn để xây dựng hạ tầng cơ sở và trang thiết bị cần thiết phục vụ ATM nhưng nguồn để bù đắp cho nguồn tiền đấy lại chưa có, tuy nhiên việc thu phí ATM cần phải có sự tính toán chặt chẽ", Bà Dương Thu Hương, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam trao đổi với báo giới bên lề Hội thảo và triển lãm Banking Việt Nam 2011tại Hà Nội.
Lạm phát cao và lãi suất cao đang song hành và cùng gây áp lực mạnh lên chi phí của các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đang hoạt động cầm chừng hoặc đứng bên bờ phá sản. Nền kinh tế đang đứng trước trải nghiệm khó khăn, có thể có tác động tích cực về mặt dài hạn (thông qua tái cấu trúc) nhưng trước mắt thì đang vật vã với thu nhập giảm và thất nghiệp gia tăng.
Cần linh hoạt hơn trong điều hành chính sách tiền tệ mới có thể giải bài toán lãi suất cao. Đó là ý kiến của PGS.TS Trần Hoàng Ngân, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, về cuộc đua lãi suất.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.