Quản lý phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa (CPH) là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Tổng công ty Ðầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) - tổ chức kinh tế đặc biệt của Nhà nước thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp sau CPH.
Ðể làm tốt nhiệm vụ này, SCIC đã chú trọng nâng cao chất lượng công tác đại diện phần vốn được giao, nhờ đó đạt được những kết quả bước đầu đáng ghi nhận.
Kiện toàn từng bước hệ thống người đại diện
Tính đến ngày 31-7-2009, SCIC đang thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại 746 doanh nghiệp (DN) trên cả nước với hệ thống 914 người đại diện (NÐD). Tại thời điểm tiếp nhận, hầu hết NÐD được SCIC "kế thừa" từ các cơ quan chủ quản trước đây của DN (Bộ, UBND tỉnh, thành phố). Những người này chủ yếu là công chức nhà nước quản lý DN và cũng chưa có quy chế quy định rõ ràng quyền lợi và trách nhiệm của họ về đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của hệ thống NÐD, nên ngay từ khi đi vào hoạt động, SCIC đã xây dựng quy chế, quy định về quan hệ phối hợp giữa SCIC và NÐD, đồng thời từng bước kiện toàn hệ thống NÐD theo hướng lựa chọn những NÐD có năng lực, hiểu biết về DN và có khả năng đóng góp tốt nhất cho DN. Ðối với một số DN đặc biệt quan trọng hoặc trong những trường hợp thật sự cần thiết, SCIC cử cán bộ của mình trực tiếp làm NÐD hoặc trực tiếp thực hiện quyền cổ đông tại DN.
Do số lượng NÐD nhiều, lại công tác ở các DN rải khắp cả nước nên SCIC đặc biệt chú trọng quan hệ phối hợp ba bên: SCIC, NÐD và chính quyền địa phương. Là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các DN trên địa bàn, các địa phương không chỉ giúp SCIC những thông tin về hoạt động của DN mà còn thông qua quản lý nhà nước, thông qua tổ chức Ðảng, giới thiệu để Tổng công ty lựa chọn những nhân sự phù hợp. Có nhân sự tốt làm NÐD, việc quản lý phần vốn Nhà nước sẽ không chỉ bảo toàn được vốn mà còn giúp DN phát triển. Hiện nay chưa có quy định nào của Nhà nước đề cập mối quan hệ phối hợp này, thời gian qua SCIC đã chủ động làm việc với từng địa phương đề xuất ký kết Quy chế phối hợp giữa chính quyền địa phương và SCIC. Rất nhiều địa phương quan tâm, chia sẻ trách nhiệm với SCIC. Ðã có 15 Quy chế phối hợp được ký kết và nhiều địa phương đóng góp ý kiến để SCIC chỉnh sửa để ký kết Quy chế này trong thời gian tới.
Cùng với việc tăng cường phối hợp các địa phương, SCIC cũng quan tâm thúc đẩy mối quan hệ gắn bó giữa hệ thống NÐD và Tổng công ty. SCIC đã phân loại DN theo ba nhóm: Nhóm A là nhóm đầu tư chiến lược bao gồm các DN hoạt động trong các lĩnh vực Nhà nước cần nắm giữ hoặc chi phối, có quy mô lớn, tăng trưởng đạt hiệu quả cao và ổn định. Nhóm B là nhóm đầu tư linh hoạt bao gồm các DN hoạt động trong những lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ hoặc chi phối nhưng quy mô vừa, có khả năng tăng trưởng và sinh lời khá. Nhóm C là nhóm bán vốn Nhà nước, bao gồm các DN không đáp ứng các tiêu chí của nhóm A và B, Nhà nước không cần nắm giữ hoặc chi phối.
Trên cơ sở phân loại ba nhóm như trên, SCIC đã chủ động thực hiện bán bớt hoặc bán hết phần vốn Nhà nước tại toàn bộ các DN nhóm C để tập trung vào những DN có quy mô vốn lớn, thuộc các ngành, lĩnh vực quan trọng, những DN có tỷ trọng vốn Nhà nước lớn, chi phối. Mặt khác, SCIC cũng phân công việc quản lý vốn tại DN theo địa bàn nhằm tăng cường hơn nữa công tác theo dõi DN và phối hợp chặt chẽ với địa phương nơi DN hoạt động.
Xác định vai trò là cổ đông năng động của DN, SCIC đã chủ động phối hợp NÐD trong việc xử lý các vấn đề của DN; thực hiện các đề án tái cơ cấu kết hợp với việc tìm kiếm cổ đông chiến lược cho DN như đối với trường hợp của Công ty CP Sữa Việt Nam (Vinamilk), Công ty CP Bảo Minh, Công ty CP Tái Bảo hiểm Quốc gia (Vinare), Công ty CP Sứ Hải Dương, Công ty TNHH Bách hóa Tràng Tiền, các DN ở Ðiện Biên, Sơn La... SCIC còn chủ động tổ chức nhiều hội thảo, khóa đào tạo về quản trị DN dành cho NÐD và các cán bộ điều hành DN; cung cấp sổ tay công tác đại diện vốn Nhà nước; chia sẻ thông tin, kết nối hệ thống NÐD thông qua Bản tin Người đại diện phát hành hằng tháng đến toàn bộ hệ thống NÐD, trong đó cung cấp các thông tin về văn bản, chính sách mới có liên quan công tác quản lý vốn Nhà nước; các thông tin thị trường; kinh nghiệm quản trị DN... Qua trao đổi ý kiến với những cán bộ chuyên môn của SCIC, NÐD còn nhận được nhiều thông tin cập nhật và chính xác về tình hình kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế để làm cơ sở đưa ra các quyết định quản lý của DN.
Chủ tịch HÐQT, Tổng Giám đốc Vinamilk Mai Kiều Liên cho biết, từ khi phần vốn Nhà nước chuyển về SCIC, DN dễ dàng tìm được tiếng nói chung và có thể nhanh chóng đưa ra các quyết định liên quan đến hoạt động của Vinamilk hơn vì không phải trình qua nhiều cấp và rất khó theo dõi công việc hiện đang nằm ở cơ quan nào, đã tiến hành đến đâu, ai đang xem xét và có những thắc mắc gì...
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế đại diện vốn Nhà nước
Theo Phó Tổng giám đốc SCIC Hoàng Nguyên Học, nhờ công tác phối hợp tốt giữa hệ thống NÐD và SCIC nên hiệu quả hoạt động của nhiều DN đã có những kết quả khả quan. Cụ thể là kể từ khi tiếp nhận đến ngày 31-12-2008, vốn điều lệ của các DN thuộc SCIC đã tăng trưởng khoảng 36%, doanh thu tăng khoảng 44%, lợi nhuận tăng khoảng 105%, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu trung bình đạt 17,5%.
Cùng với hiệu quả hoạt động của DN, phần vốn Nhà nước tại DN cũng gia tăng. Tổng số vốn Nhà nước SCIC tiếp nhận là khoảng 7.000 tỷ đồng nhưng giá trị thị trường hiện nay ước khoảng 25.000 tỷ đồng, tăng gần bốn lần. Có được con số nêu trên một phần là nhờ SCIC đã có những quyết định hợp lý khi quản lý vốn Nhà nước. Thí dụ ở Công ty CP Nhựa Bình Minh, SCIC nhận bàn giao vốn Nhà nước là 42,3 tỷ đồng, đã bán quyền mua cổ phần, thu cổ tức đạt 170 tỷ đồng, vốn Nhà nước tại công ty hiện nay vẫn còn 50 tỷ đồng nhưng giá trị thị trường khoảng 360 tỷ đồng. Hay như ở Công ty CP Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ, sau khi nhận bàn giao vốn Nhà nước 40,2 tỷ đồng, SCIC đã bán bớt cổ phần, thu cổ tức đạt 103 tỷ đồng, vốn còn lại tại công ty hiện nay là 40 tỷ đồng, có giá trị thị trường khoảng 140 tỷ đồng.
Theo các chuyên gia kinh tế, ưu điểm của mô hình quản lý vốn Nhà nước thông qua một tổ chức tài chính chuyên biệt như SCIC là ở chỗ, vốn Nhà nước sẽ được quản lý theo những tiêu chí của kinh tế thị trường tức là bám sát vào hiệu quả kinh doanh của DN để quyết định DN nào cần đầu tư thêm, DN nào không có hiệu quả thì bán đi. Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc phụ trách nghiên cứu Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, TP Hồ Chí Minh cho rằng: Hoạt động quản lý vốn nhà nước là một hoạt động chuyên môn sâu vì vậy cần có một cơ quan chuyên biệt để quản lý. SCIC là một trong những mô hình mà chúng ta có thể dựa vào đó, tham khảo kinh nghiệm của các nước khác để hoàn thiện.
Phó Chủ tịch HÐQT kiêm Tổng Giám đốc SCIC Trần Văn Tá cho biết, để có thể hoàn thiện, củng cố và tiếp tục phát triển mô hình quản lý vốn Nhà nước thông qua SCIC còn rất nhiều việc cần làm, trong đó có việc khẩn trương hoàn thiện cơ chế đại diện phần vốn Nhà nước tại DN. Thực tế cho thấy, một trong những bất cập hiện nay là khung pháp lý quy định cơ chế đối với NÐD còn một số điểm chưa rõ ràng. Mặc dù tháng 3-2009, Chính phủ đã có Nghị định 09/2009/NÐ-CP, ban hành quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào DN, trong đó có đề cập đến NÐD, tuy nhiên chỉ mới làm rõ về trách nhiệm, quyền hạn, cơ chế lương thưởng. Còn khá nhiều nội dung khác cần nhanh chóng hướng dẫn. Thí dụ như quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật người đại diện; chế độ hưu trí, chế độ đãi ngộ khi người đại diện đến tuổi hưu hoặc khi thôi làm NÐD tại DN. Trong khi chờ các quy định pháp luật chung, SCIC sẽ tiếp tục chủ động hoàn thiện Quy chế phối hợp giữa NÐD và SCIC, Quy chế phối hợp giữa UBND tỉnh, thành phố và SCIC, đồng thời tăng cường các hoạt động phối hợp trên tinh thần SCIC không phải là một cơ quan chủ quản cấp trên của DN như trước đây mà là cổ đông, đồng thời là đối tác của DN.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
"Tính toán bài toán tiền lương giống như đi thăng bằng trên dây vậy. Quả thật là vô cùng khó khăn", Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Phạm Minh Huân nói với VnEconomy như vậy khi trao đổi xung quanh vấn đề lương tối thiểu và việc thành lập Hội đồng Tiền lương Quốc gia.
Vụ cháy tại cây xăng ở Hà Nội mới đây cùng với việc phát hiện rút ruột xăng xe bồn tại Quảng Ninh đã làm nóng lên câu chuyện quản lý kinh doanh xăng dầu, tại cuộc họp của do Bộ Công Thương tổ chức ngày 5/6.
Với số vốn đầu tư hàng nghìn tỷ đồng, trong những năm qua, các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đã giúp hàng vạn hộ nông dân đẩy mạnh sản xuất, mở rộng thâm canh tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và phát triển mở rộng ngành nghề, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống người dân nông thôn.
Đợt kiểm toán lần thứ 3 từ tháng 7 đến tháng 9/2009 và đợt 4 từ tháng 9 đến tháng 11/2009, Kiểm toán Nhà nước sẽ kiểm toán với 77 đơn vị thuộc 5 lĩnh vực đã được phê duyệt.
Theo Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam (EVN), trong tháng 7, EVN đã tiếp nhận lưới điện hạ áp tại 221 xã và bán điện trực tiếp cho 234.852 hộ dân nông thôn. Tính chung bảy tháng qua, EVN đã tiếp nhận lưới điện hạ áp tại 1.567 xã với 211 trạm biến áp, 19.835 km đường dây hạ áp và bán điện trực tiếp cho 1 triệu 671 nghìn hộ dân nông thôn, đạt 53,48% kế hoạch năm.
Ngày 5-8, tại Hà Nội, Công ty Đầu tư­ Phát triển đường cao tốc VN (VEC) và Tổng Công ty Cầu đường Trung Quốc (CRBC) đã ký hợp đồng xây lắp gói thầu 1A - dự án Xây dựng đường cao tốc Bắc - Nam đoạn TPHCM - Long Thành - Dầu Giây.
Đó là thông điệp của Liên minh Hợp tác xã (HTX) Quốc tế (ICA) nhân ngày HTX quốc tế của ICA lần thứ 87 và ngày Quốc tế HTX của Liên Hợp Quốc lần thứ 15.
Thủ tướng Chính phủ vừa có ý kiến về Đề án tái cơ cấu ngành điện cho phát triển thị trường điện Việt Nam do Bộ Công Thương chủ trì xây dựng, trong đó đặt ra 3 yêu cầu đối với việc tái cơ cấu ngành giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.