Nhiều hiệp hội doanh nghiệp đã kiến nghị giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) xuống thấp hơn 23% đề xuất trong dự thảo sửa đổi Luật thuế TNDN vừa công bố.
Giảm thấp hơn, thực hiện sớm hơn
Đầu tháng 12/2012, Bộ Tài chính đã hoàn tất bản dự thảo sửa đổi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Theo đó, thuế suất phổ thông sẽ giảm từ mức 25% hiện hành xuống còn 23%. Riêng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) sẽ được áp dụng thuế suất thấp hơn là 20%.
Điều kiện để được hưởng mức thuế ưu đãi này là những DN có dưới 200 lao động và doanh thu bình quân năm là 20 tỷ đồng. Thời gian có hiệu lực của Luật dự kiến từ 1/1/2014.
Đóng góp ý kiến qua VCCI mới đây, Hội tư vấn Thuế Việt Nam cho rằng, có thể giảm thuế suất thuế TNDN phổ thông thêm 1% so với mức 23% như dự thảo nêu. Cơ quan này thống kê, trong 9 năm qua, trung bình mỗi lần điều chỉnh, thuế suất giảm trên dưới 10%. Luật thuế TNDN năm 2003 áp dụng từ 1/1/2004 đã giảm thuế suất 4%, từ 32% xuống 28%, giảm tỷ lệ tương đối là 12,5 %. Luật thuế TNDN năm 2008 áp dụng từ 1/1/2009 điều chỉnh giảm 3 %, từ 28% xuống 25% với mức giảm tỷ lệ tương đối là 10,7 %.
Theo dự thảo lần này, thuế suất thuế TNDN giảm 2%, từ 25% xuống 23% với mức giảm tỷ lệ tương đối là 9,2 %.
Hội Tư vấn Thuế Việt Nam cũng cho rằng, theo tốc độ giảm dần thuế suất và theo chiến lược cải cách thuế, đến năm 2020 thuế suất thuế TNDN là 20% thì mức sửa đổi như dự thảo là hoàn toàn phù hợp.
“Tuy nhiên nếu khuyến khích doanh nghiệp tích lũy vốn đầu tư mở rộng thì có thể giảm thuế suất cơ bản thêm 1 % so với dự thảo, tức là hạ tiếp mức thuế suất xuống còn 22%, như vậy mức giảm tỷ lệ tương đối là 12 %”, Hội kiến nghị.
Việc giảm thuế suất cần phải tính toán phần hụt thu Ngân sách Nhà nước để có phương án hợp tình, hợp lý.
Đối với các DNNVV, Hội Tư vấn thuế bày tỏ, việc áp dụng thuế suất 20% cho nhóm DN này như dự thảo Luật sẽ đạt được hai mục đích, quan tâm hỗ trợ DN và ổn định nguồn thu từ các DN này.
Tuy nhiên, Bộ Tài chính cần nghiên cứu thêm một phương án thuế suất áp dụng chung cho các DNNVV. Cụ thể là có thể áp dụng giảm thêm thuế suất thuế TNDN dưới mức 23%, tức khoảng 20- 22 % cho các DNNVV nói chung.
Đồng thời, dự thảo Luật cũng nên đưa ra các giải pháp riêng cho DNNVV trong từng giai đoạn cụ thể. Hiện nay, tuy thuế TNDN là 25% % nhưng do gói “hỗ trợ” theo Nghị quyết của Quốc hội được giảm 30% thuế nên thực chất, các DN này chỉ nộp thuế TNDN là 17,5%.
Riêng về tiêu thức xác định DNNVV, Hội tư vấn thuế kiến nghị Bộ Tài chính cân nhắc thêm, đặc biệt là liên quan đến doanh thu có đặc thù thực tiễn doanh thu thương mại, sản xuất, dịch vụ rất khác nhau.
Liên quan đến ưu đãi này, Hiệp hội Doanh nghiệp Gia Lại có ý kiến cần nới rộng điều kiện các DN nhỏ và vừa được hưởng thuế suất 20%. Cụ thể, đó là những DN sử dụng dưới 300 lao động làm việc toàn bộ thời gian và có doanh thu năm không quá 100 tỷ đồng.
Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Bình Thuận cũng có đề xuất tương tự khi cho rằng, dự thảo Luật cần bổ sung đối tượng dược hưởng mức thuế suát 20%. Bên cạnh đó, hiệp hội này còn bày tỏ, cần rút ngắn thời gian áp dụng mức thuế suất 20% này là thực hiện từ 01/7/2013 thay vì 01/01/2014 như dự thảo.
Trong khi đó, Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc lại muốn: “Trong lúc các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các DNNVV đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn kinh doanh thì 5 năm tới – tức là sau khi Luật sửa đổi có hiệu lực ( từ năm 2014 – 2019), thuế suất thuế TNDN nên quy định là 20%. Đối với doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, sử dụng dưới 200 lao động, doanh thu dưới 20 tỷ thuế suất nên quy định là 17%.
Không nên khống chế chi phí quảng cáo
Trong công văn gửi tới Bộ Tài chính, VCCI còn đề xuất dự thảo Luật thuế TNDN không nên tiếp tục khống chế chi phí quảng cáo.
So sánh với Luật hiện hành, dự luật đã điều chỉnh mức khống chế chi phí khuyến mại quảng cáo từ 10% lên 15%, tức là nếu chi vượt mức này, DN sẽ không được trừ khi tính thu nhập chịu thuế.
Đại diện cho tiếng nói của nhiều hiệp hội DN, VCCI cho biết, mặc dù đã giảm mức khống chế nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn cho rằng chưa hợp lý và nên bãi bỏ mức giới hạn này.
Theo phân tích của VCCI, Việt Nam là một trong ít nước trên thế giới có quy định về mức khống chế như trên đối với chi quảng cáo và khuyến mại. Điều này làm cho chi phí thuế thực của doanh nghiệp tăng lên trung bình khoảng 42% - 80% so với chi phí thuế danh nghĩa. Đây là một điểm hạn chế lớn trong quá trình ra quyết định đầu tư của nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Trên thực tế, quy định này có thể hạn chế ở mức nào đó hiện tượng lẩn tránh thuế của doanh nghiệp, nhờ đó sẽ hạn chế thất thu cho ngân sách. Tuy nhiên, chính quy định này đã gây thiệt hại cho DN vì thực tế phổ biến, các DN đều đang chi cho các hoạt động này trên mức khống chế là chủ yếu. Hơn nữa, vì chiến lược, quy mô, ngành nghề khác nhau nên nhu cầu quảng cáo, khuyến mãi, quảng bá thương hiệu của các doanh nghiệp là khác nhau. Việc khống chế chi phí này sẽ gây ra tình trạng bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
VCCI cho hay, nếu bỏ giới hạn mức chi hợp lý thì vừa khuyến khích khả năng sáng tạo, kinh doanh và thu lợi nhuận của doanh nghiệp , Nhà nước cũng không thất thu bởi khoản chi của doanh nghiệp này đồng thời là khoản thu của doanh nghiệp khác mà Nhà nước đã đánh thuế đối với khoản thu này.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
"Tính toán bài toán tiền lương giống như đi thăng bằng trên dây vậy. Quả thật là vô cùng khó khăn", Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Phạm Minh Huân nói với VnEconomy như vậy khi trao đổi xung quanh vấn đề lương tối thiểu và việc thành lập Hội đồng Tiền lương Quốc gia.
Vụ cháy tại cây xăng ở Hà Nội mới đây cùng với việc phát hiện rút ruột xăng xe bồn tại Quảng Ninh đã làm nóng lên câu chuyện quản lý kinh doanh xăng dầu, tại cuộc họp của do Bộ Công Thương tổ chức ngày 5/6.
Bức tranh hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước (DNNN) năm 2012 vẫn chồng chất nợ nần, gặp nhiều rủi ro, không tự chủ được về tài chính.
iữ nguyên giá bán lẻ hiện hành dù hiện nay, giá xăng dầu trong nước đang lỗ từ 90- 410 đồng/lít,kg, Bộ Tài chính vừa cho biết. Thay vào đó, các doanh nghiệp sẽ được bù lỗ từ Quỹ bình ổn.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với 12,72 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam trong năm 2012, mục tiêu thu hút ít nhất 15 tỷ USD từ nguồn này đã không đạt.
Dự thảo nghị định về tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty nhà nước thay thế Nghị định số 101/2009/NĐ-CP vừa chính thức được Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố lấy ý kiến các bên liên quan.
Tổng cục Thống kê vừa công bố số liệu chính thức về các đơn vị kinh tế, hành chính và sự nghiêp trong vòng 5 năm từ 2007-2010. Báo cáo đã cho thấy bức tranh rõ nét về sự biến động của khu vực này thời gian qua.
Ngày 4-1, Bộ KH-ĐT công bố kết quả sơ bộ Tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính sự nghiệp năm 2012. Theo đó, đơn vị kinh tế, hành chính, sự nghiệp tiếp tục tăng nhanh trong 5 năm qua (2007-2012).
Ngày 28-12-2012, Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 160-QĐ/TW về việc thành lập Ban Kinh tế Trung ương; Quyết định số 161-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Kinh tế Trung ương.
Ngày 2/1/2013, tại Hải Phòng, Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan đã tổ chức lễ “Công bố triển khai chính thức thủ tục hải quan điện tử” áp dụng trên phạm vi toàn quốc.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.