Với mức thuế suất thuế tài nguyên được điều chỉnh như theo dự thảo của Chính phủ thì số thu thuế tài nguyên mỗi năm sẽ đạt khoảng 27.360 tỷ đồng.
Biểu thuế suất đối với các loại tài nguyên có tăng, nhưng vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với mức trần cho phép.
Tiếp tục phiên họp thứ 30, chiều 14/4, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét biểu thuế suất thuế tài nguyên. Nhiều ý kiến cho rằng, biểu thuế suất đối với nhiều loại tài nguyên cần tăng mạnh hơn và cụ thể đối với từng loại tài nguyên, vì nguồn tài nguyên có hạn và ngày càng cạn kiệt dần, đặc biệt là các loại tài nguyên không tái tạo.
Theo tờ trình của Chính phủ, trong danh mục nhóm, loại tài nguyên chịu thuế và mức thuế suất được phân chia làm 9 nhóm. Trong đó, biểu thuế suất thuế tài nguyên điều chỉnh sẽ tăng cao mức thuế suất đối với các loại tài nguyên không có khả năng tái tạo (như khoáng sản kim loại, dầu thô, khí thiên nhiên…), còn với những loại tài nguyên có khả năng tái tạo (như nước, hải sản tự nhiên…) thì cơ bản là thuế suất thấp.
Cụ thể, tài nguyên thuộc nhóm khoáng sản kim loại đều tăng so với hiện hành là 3%; nhóm khoáng sản không kim loại cũng tăng so với hiện hành (như cát từ 5% lên 10%, sét chịu lửa từ 7% lên 10%, cao lanh từ 7% lên 10%...).
Với mức thuế suất thuế tài nguyên được điều chỉnh như theo dự thảo của Chính phủ thì số thu thuế tài nguyên mỗi năm sẽ đạt khoảng 27.360 tỷ đồng.
Tuy nhiên, theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội thì mức thuế suất theo dự thảo của Chính phủ đối với hầu hết các tài nguyên không tái tạo chỉ được điều chỉnh với mức độ tăng nhẹ và rất thấp so với mức trần cho phép như: sắt, mangan ở mức 10% (tăng 3%, trong khi mức trần là 20%); bạch kim, bạc, thiếc ở mức 10% (tăng 3%, trong khi mức trần là 25%); kẽm, đồng, nhôm cũng chỉ ở mức 10% - mức trần là 25%, than là 5% và 7% - trần là 20%...
Đặc biệt, nhiều tài nguyên trữ lượng còn lại thấp, giá giao dịch trên thị trường thế giới khá cao nhưng lại có thuế suất rất thấp như titan, antraxít...
Cũng theo cơ quan thẩm tra, dự thảo biểu thuế suất cũng chưa quy định thuế suất riêng biệt mà vẫn theo nhóm và áp dụng một mức thuế suất chung cho nhiều tài nguyên, như bạch kim, bạc, thiếc vẫn trong cùng một nhóm với thuế suất 10%; chì, kẽm, nhôm, bauxite, đồng, ni-ken cũng cùng một nhóm khác với thuế suất 10%...
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Văn Thuận nêu quan điểm, việc đưa ra mức thuế suất thuế tài nguyên cần phải được phân tích, nghiên cứu cụ thể, chi tiết với từng loại tài nguyên, như tài nguyên nào khuyến khích khai thác, tài nguyên nào không, trữ lượng ít hay nhiều, nhu cầu sản xuất kinh doanh của quốc gia ra sao…
“Tuy nhiên, tờ trình của Chính phủ lại chưa chỉ ra được vì sao nhóm này tăng thế này, nhóm kia tăng thế kia. Biểu thuế phải rất cụ thể chứ không thể bốc thuốc mấy phần trăm được. Nên nếu có thông qua cũng không an tâm”, ông Thuận nói.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước phân tích, nhiều loại khoáng sản của Việt Nam chủ yếu là xuất thô như mangan, titan… nên cần phải điều chỉnh tăng mạnh hơn nữa. Và, vì “khung trần còn cao lắm”.
Đồng tình với những quan điểm trên nhưng Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Hà Văn Hiền cho rằng, việc xây dựng biểu thuế suất cũng không nên nặng về thiên hướng “khư khư giữ tài nguyên” mà phải khuyến khích để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh sản xuất, tức là cũng không nên tăng thuế quá cao.
Trước những ý kiến chưa đồng tình, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh giải trình, mức thuế suất “đánh” vào tài nguyên nhưng cũng “đánh” vào đầu vào của sản xuất. Vì thế, nếu chỉ đánh vào thuế tài nguyên để nhằm hạn chế xuất khẩu thì đầu vào cho nhiều hoạt động sản xuất trong nước cũng sẽ tăng lên.
Ông Ninh lấy ví dụ như than là mặt hàng xuất khẩu nhưng là đầu vào của điện. Nên nếu tăng thuế suất cao đối với tài nguyên than sẽ làm tăng đầu vào của ngành điện, và sẽ dẫn tới tăng giá điện. “Vì thế, việc xây dựng biểu thuế tài nguyên cũng phải đảm bảo các hoạt động sản xuất trong nước”, ông Ninh nói.
Do chưa đạt được sự đồng thuận của đa số các đại biểu nên Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên đề nghị, dự thảo nghị quyết về việc ban hành biểu thuế suất thuế tài nguyên cần tiếp tục có thời gian để góp ý, chỉnh sửa, hoàn thiện, “cố gắng” đến ngày 18/4 báo cáo lại Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nếu hợp lý thì sẽ thông qua.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
"Tính toán bài toán tiền lương giống như đi thăng bằng trên dây vậy. Quả thật là vô cùng khó khăn", Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Phạm Minh Huân nói với VnEconomy như vậy khi trao đổi xung quanh vấn đề lương tối thiểu và việc thành lập Hội đồng Tiền lương Quốc gia.
Vụ cháy tại cây xăng ở Hà Nội mới đây cùng với việc phát hiện rút ruột xăng xe bồn tại Quảng Ninh đã làm nóng lên câu chuyện quản lý kinh doanh xăng dầu, tại cuộc họp của do Bộ Công Thương tổ chức ngày 5/6.
Đổi mới hoạt động thanh tra theo hướng nào để nâng cao hiệu lực, hiệu quả là vấn đề được cơ quan thẩm tra nhấn mạnh khi xem xét dự án Luật Thanh tra (sửa đổi) được Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sáng 16/4.
Theo tin từ Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng đã đồng ý về chủ trương việc xây dựng thí điểm Nhà máy sản xuất điện gió với công suất khoảng 30MW, do Tập đoàn Điện lực Việt Nam làm chủ đầu tư tại xã Lợi Hải, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận. Trên cơ sở thí điểm sẽ rút kinh nghiệm để triển khai rộng rãi tại các địa điểm khác.
Tình hình cung cấp điện đã căng thẳng từ cuối tháng 3.2010 và sẽ tăng dần lên trong các tháng tiếp theo trong mùa khô năm 2010. Hà Nội và TP.HCM đã kiến nghị tập đoàn Điện lực Việt Nam ưu tiên phân bổ sản lượng cho địa phương nhưng vẫn phải cùng các công ty điện lực địa phương thực hiện chủ trương tiết kiệm điện.
Dự án xây dựng nhà máy lọc dầu số một của Việt Nam (Dung Quất) ngay từ lúc khởi đầu đã gặp nhiều trở ngại. Cho đến nay, hơn một năm kể từ ngày lễ mừng sản phẩm đầu tiên đã trôi qua, nhà thầu Technip vẫn chưa thể bàn giao nhà máy cho chủ đầu tư.
Bộ Công Thương kiến nghị cắt giảm trên 42% chi phí tuân thủ thủ tục hành chính (TTHC), tương đương với việc giảm được trên 88 tỷ đồng/năm, sau khi tiến hành rà soát 209 TTHC.
Từ các kết quả giám sát, Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội kiến nghị Quốc hội sớm xây dựng Luật giáo dục đại học để thống nhất và luật hóa các vấn đề về quản lý hệ thống giáo dục đại học.
Bảo vệ môi trường trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông phải được thực hiện từ giai đoạn hoạch định chiến lược, quy hoạch cũng như trong quá trình đầu tư xây dựng.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.