Đối với nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong hệ thống lễ nghi vòng đời người, lễ cưới là lễ hội quan trọng nhất. Nếu lễ cưới của người Kinh thường diễn ra vào mùa đông thì lễ cưới của các dân tộc thiểu số được chọn vào lúc thu hoạch xong mùa múa rẫy. Mùa ấy cũng đồng thời diễn ra nhiều lễ hội khác như lễ mừng mùa, lễ chúc phúc, lễ tạ ơn thần linh... cho nên người ta gọi là mùa “ăn năm uống tháng”.
Lễ cưới tuy diễn ra trong khuôn khổ hai gia đình nhưng có sự đóng góp to lớn của cả cộng đồng. Lễ cưới các dân tộc thiểu số chứa đựng nhiều giá trị văn hoá truyền thống nổi bật, nhất là nghi lễ, tập tục hay, lạ, các hình thức sinh hoạt văn nghệ, vui chơi và đặc biệt là trang phục, trang sức của cô dâu trong lễ cưới.
Một tập tục khá phổ biến của nhiều tộc người miền núi là tục trùm chăn trong lễ cưới. Người ta chọn tấm thổ cẩm có nhiều hoa văn đẹp, mới dệt, trùm lên đầu cô dâu chú rể để chúc phúc, như lễ Pà Dùm của người Cơtu. Lễ trùm chăn là nghi thức thiêng liêng, đánh dấu sự bắt đầu cuộc sống lứa đôi. Đôi trai gái cùng uống ché rượu cưới, ăn miếng bánh lá, bôi huyết con vật hiến tế lên trán... như là lời thề hẹn thủy chung trước sự chứng kiến của thần linh và dân làng. Người M'nông trùm chăn để thử tài xử trí và sự nhanh nhạy của đôi trai gái. Khi tấm chăn vừa phủ lên đầu cô dâu chú rể, theo quan niệm của đồng bào ai là người nhanh tay dỡ tấm chăn ra trước thì người ấy có vai trò định đoạt cuộc sống gia đình, hạnh phúc sau này.
Ở các tỉnh miền núi phía Bắc, dân tộc Dao đỏ còn giữ nhiều tập tục đẹp trong lễ cưới, nhất là trang phục cho cô dâu. Lễ đưa dâu về nhà chồng thực sự là một cuộc “diễu hành” biểu dương cái đẹp nghệ thuật và trang phục. Nét độc đáo nhất là cô dâu - nhân vật chính của buổi lễ - trên đường về nhà chồng luôn giấu mặt trong tấm thổ cẩm lớn màu đỏ chói. Dẫn đầu đoàn đưa dâu là các nghệ nhân thổi kèn, đánh trống, bên cạnh là cô gái trẻ cầm vạt váy áo cô dâu dắt đi; phía sau có người che dù và đoàn người đi theo cổ vũ, đưa tiễn cô dâu trong không khí rộn ràng, vui nhộn. Về đến nhà chồng, làm lễ xong cô dâu mới được phép gỡ tấm vải che mặt ra để mọi người ngắm nhìn gương mặt hạnh phúc của cô trong ngày cưới, nên duyên vợ chồng.
Từ xa xưa, con trai, con gái Mông chỉ nghe theo tiếng gọi của trái tim, người Mông không lấy vợ lấy chồng theo kiểu “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”. Con gái Mông đã yêu thì mãnh liệt vô cùng, nếu thích ai thì bỏ nhà bỏ cửa đi theo, mà không thích thì trâu béo, bạc nén cũng chẳng cần. Tình yêu khiến họ vượt trăm sông ngàn suối để đến với nhau. Tình yêu thành lời hát, tiếng khèn tha thiết ở những phiên chợ tình tìm bạn, trên các sườn non vách núi. Các chàng trai dùng tiếng khèn điệu hát thay cho lời tỏ tình. Người Mông có hình thức “kéo vợ” (mà ta hay gọi là cướp vợ), không giống với bất kỳ dân tộc nào. Cho dù cô gái ưng thuận, nhưng khi chàng trai “bắt”, cô vẫn cố tình giằng co để chứng tỏ danh giá của mình. Cái lý của người Mông là “để mai này sống với nhau có điều gì khúc mắc, chàng trai không được nói là “cô tự theo tôi về...”; và cô gái cũng có cớ để dỗi rằng “do anh kéo tôi về đấy chứ!”.
Trang phục, trang sức lễ cưới cũng là nét đẹp nổi bật của văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số. Hầu như dân tộc nào cũng có những bộ trang phục đẹp nhất và trang sức quý giá nhất để làm đẹp cho cô dâu trong ngày cưới. Nhìn vào váy áo, trang sức người ta cũng biết được ít nhiều về đời sống kinh tế gia đình và sự giỏi giang của chính cô dâu. Bởi vì một cô gái siêng năng, biết dệt thổ cẩm, thêu thùa hoa văn, luôn tay kéo bông... thì đương nhiên cũng phải biết tạo ra cho mình bộ trang phục truyền thống thật đẹp. Đó cũng là một tiêu chuẩn mà các chàng trai làng chọn vợ. Cô dâu không chỉ biết tạo ra váy áo đẹp cho mình mà còn làm nhiều sản phẩm khác như khăn piêu, chăn nệm bông lau, thắt lưng, tấm choàng, tấm địu con... để mang tặng bà con nhà chồng và làm tài sản ra riêng. Đối với các dân tộc Tây Bắc, đồ dẫn cưới không thể thiếu là các loại trang sức bằng bạc như vòng cổ, vòng tay, khuyên tai có giá trị và được ưa thích. Còn đối với các dân tộc ở Trường Sơn - Tây Nguyên, vòng đồng và các loại trang sức bằng cườm mã não là hiện vật không thể thiếu trong nghi lễ hôn nhân. Trong lễ hội nói chung, trong lễ cưới nói riêng, trên cổ các cô gái luôn đeo đầy những xâu cườm mã não, biểu thị sự giàu có và sang trọng.
Lễ cưới các dân tộc thiểu số chứa đựng nhiều giá trị văn hóa truyền thống rất cần được nâng niu, gìn giữ. Và đáng mừng là thời gian qua, nhiều địa phương trong nước đã sưu tầm, nghiên cứu và ghi hình về lễ cưới, các lễ hội dân gian cổ truyền, góp phần bảo tồn, phát huy vốn văn hóa phi vật thể đặc sắc của các dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc Việt.
Từ bản Tả Phìn đến thị trấn Sa Pa (Lào Cai) là đoạn đường đèo ngoạn mục với cảnh quan diễm lệ. Những thửa ruộng bậc thang xanh xanh với nào lúa nước, su su chạy dài ngút mắt bên dưới lũng sâu.
ừ thị trấn Kiên Lương (Kiên Giang) đi Mo So có một đoạn đường đầu tiên ở nước ta được đổ bê tông xi măng thay vì trải nhựa như thường thấy; rồi thích thú chứng kiến những ngọn núi đá vôi chập chùng chạy ngược bên khung cửa xe. Theo con đường nhựa nổi lên giữa những đồng nước chua phèn lưa thưa cây cỏ vàng hoe màu nắng, Mo So rồi cũng hiện ra trước mắt.
Ở trung tâm thành phố Cần Thơ có những ngôi chùa cổ ra đời hàng trăm năm trước, không chỉ phục vụ nhu cầu tín ngưỡng mà còn chữa bệnh cứu người, tế độ chúng sinh. Hãy cùng chúng tôi ghé thăm chùa Hiệu Minh (Đàn Tiên Cái Khế) - một ngôi chùa như vậy.
Những ngày này, khi lúa, ngô đã “nằm yên” trong nhà, cũng là lúc đồng bào dân tộc thiểu số Chơro ở Đồng Nai tổ chức lễ hội Sayangva (ăn thần lúa).
Cây tre đã gắn bó với người Việt hàng ngàn đời nay. Tre là nguyên liệu được người Việt khai thác tối đa sự hữu dụng tưởng như vô hạn; từ những vật dụng gần gũi, thiết thân trong đời sống thường nhật cho đến khí cụ chiến đấu, bảo vệ quê hương. Hình ảnh lũy tre thanh bình, thơ mộng trong thi ca, trong bao chuyện tình lãng mạn và cả trong huyền sử Thánh Gióng.
Lễ cưới của người Dao ngày nay đã được đơn giản hóa và trai gái cũng không kết hôn quá sớm. Còn trước đây, khi các cậu trai, cô gái dân tộc Dao đến tuổi 12-13, cha mẹ họ đã lo tìm vợ, gả chồng. Nếu bố mẹ chàng trai thấy vừa mắt một cô gái nào đó thì ngay lập tức chuẩn bị lễ vật sang xin dâu.
Nói tới Tây Bắc, người ta hay dùng đến hai chữ "khám phá". Những câu chuyện kỳ thú về cách ăn nếp ở của những con người trên những vùng cao nguyên cực Bắc tổ quốc, nơi cư ngụ của rất nhiều dân tộc anh em, như vẫn còn chờ các vị khách miền xuôi khám phá. Một vài câu chuyện cóp nhặt trên đường…
Người Dao Tiền Bắc Kạn sống rải rác ở các huyện Ba Bể, Ngân Sơn… là dân tộc có nền văn hoá đặc sắc riêng biệt Trang phục của người Dao Tiền cầu kì, tinh tế nhưng phù hợp với tập quán và tập quán lao động sản xuất của mình. Khác với người Dao đỏ hoạ tiết trong trang phục chủ yếu là màu đỏ thì người Dao Tiền Bắc Kạn màu sắc chủ đạo trong trang phục là màu chàm và màu trắng rất tinh tế nhưng nhã nhặn, hài hoà.
Truyền thuyết dân gian của người Việt và người Chăm đều cho rằng cá voi (cá Ông) không phải là một loài cá bình thường mà là một loại cá thần. Biểu hiện ở đây không phải là do có sức vóc to lớn và sức chịu đựng khác thường, mà là loài cá có suy nghĩ, có tình cảm, đặc biệt là sự cảm nhận về tâm linh như con người. Không phải ngày xưa mà ngay cả bây giờ nhiều người vẫn nghĩ thế.
Người Êđê tuy có gần 30 nhóm địa phương khác nhau,nhưng đều chung một hình thức trang phục. Về hình thức, y phục và cách làm dáng của đồng bào Êđê mang những nét chung của nhiều dân cư ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên. Nữ mặc váy dài và áo ngắn chui đầu. Nam giới thì đóng khố và mang áo cánh dài quá mông. Nam nữ đều thích dùng nhiều trang sức bằng vòng bạc, vòng đồng.
Con thuyền gắn bó với sinh hoạt, đời sống, phong tục, lễ hội của người Việt Nam từ cổ xưa đến nay. Văn hóa vùng sông, biển với những tục lệ lâu đời đã thành phong tục đặc sắc là vốn quý trong kho tàng văn hóa dân gian bản địa cổ truyền.Thuyền rồng để vua dùng gọi là "thuyền ngự".
Nếu như lễ hội đâm trâu là một nét văn hóa đặc trưng mang tính phổ biến của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, thì đối với người Chăm nghi lễ chém trâu tế thần rất hiếm khi diễn ra. Có thể nói lễ chém trâu được coi là một phong tục độc đáo mang tính riêng biệt của cộng đồng người Chăm Lạc Tánh.
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
“6 năm qua, chúng tôi phải vật lộn với khủng hoảng vận tải biển, kinh tế suy thoái, những khó khăn do căng thẳng tại Biển đông… Thực sự chúng tôi sắp hết hơi rồi!” - ông Vũ Đức Then - Phó Chủ tịch Hội vận tải biển Diêm Điền - Thái Bình bày tỏ.
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”