Seedlink chiêu sinh hè 2015 các lớp học hát cho trẻ em tại Hà Nội
Seedlink chiêu sinh hè 2015 các lớp học múa cho trẻ em tại Hà Nội
Chương 6: MIỀN ĐÔNG BỊ LÃNG QUÊN
Nhìn vào bản đồ miền duyên hải phía đông nước Mỹ, ta thấy thiếu vắng những thành phố lớn chạy dọc theo bờ biển phía bắc của Boston. Hầu như không có tuyến đường bộ lớn nào xuất phát từ bờ biển đó đi vào nội địa và các thành phố sâu trong đất liền thường nhỏ hơn những thành phố dọc bờ biển. Khu vực này bao gồm bắc New England và vùng Adirondacks thuộc New York có thể được coi như là Bypassed East - Miền Đông bị quên lãng (bản đồ 5).
Bypassed East nằm gần các tuyến giao thông chính, thậm chí vắt ngang qua, nhưng không nằm trên các tuyến đó. Giao thông đường biển có thể dễ dàng vòng qua khu vực này khiến cho nó trở thành vùng trắng về giao thông, tạo ra mức tăng trưởng kinh tế khu vực rất chậm, thậm chí là ngưng trệ.
Có thể nói, nếu như Nam New England là một phần của khu vực các đô thị lớn của nước Mỹ thì bắc New England về căn bản lại không phải như vậy. Nó rất giống với các tỉnh thuộc Đại Tây Dương của Canada.
Môi trường tự nhiên
Thiên nhiên Bypassed East rất đẹp. Dãy núi Presidential thuộc White Mountains (Núi Trắng) ở New Hampshire là nơi có địa hình thuộc loại gập ghềnh nhất phía đông Hoa Kỳ. Bờ biển trải dài, lồi lõm với những mũi đất lớn nhô ra biển và vô số vịnh nhỏ bao bọc bởi các bãi đá, ngày đêm được các con sóng Đại Tây Dương vỗ về. Nhiều vùng đất hoang vắng, rộng lớn hầu như không có người định cư chỉ cách các thành phố sầm uất trong lục địa vài giờ ôtô.
Hầu hết Bypassed East là một phần của bộ phận mở rộng phía đông bắc của Cao nguyên Appalachia. Tuy nhiên, địa hình nơi đây không có gì giống với hệ thống thung lũng và dãy núi dài rõ nét ở phía nam Appalachia.
Vùng Adirondacks nằm ở phía bắc New York là bộ phận mở rộng về phía nam của Canadian Shield. Cao nguyên rộng lớn này đã từng bị xói mòn mạnh bởi các lớp băng lục địa khiến cho địa hình chung mang dáng vẻ tròn trịa hơn là vuông thành sắc cạnh. Mặc dù đồi núi trên Adirondacks không lớn nhưng độ rộng thực sự của cao nguyên này rất đáng kể.
Một vùng cao nguyên mênh mông bao trùm gần như toàn bộ New England. Đây là khu vực địa lý cổ và cũng từng bị xói mòn dữ dội bởi nước và băng trôi. Kết quả là trong vùng hiếm có độ cao vượt quá 1500 mét. Tác động bào mòn trên diện rộng của các núi băng lục địa đã khiến cho các đồi, núi cao trên cao nguyên này có dạng tròn. Chỉ ở những nơi đủ cao để vẫn ở bên trên các tảng băng trôi mới có thể tìm thấy những đỉnh núi gồ ghề, lởm chởm.
Hai vùng núi chính ở Bắc New England là Núi Xanh (Green Mountains) thuộc Vermont và Núi trắng (White Mountains) thuộc New Hampshire. Về độ cao, Green Mountains thấp hơn, đỉnh cao nhất cũng chưa đến 1500 mét, các chóp núi đều tròn và nhẵn. Trong khi đó, White Mountains cao tới 1900 mét và phía trên các ngọn núi cao thường gồ ghề và rất dốc.
Xa hơn nữa về phía nam, nơi mà cao nguyên bị xói mòn mạnh bởi các dòng nước chảy, một vài đỉnh núi độc lập đứng tách biệt khỏi hai khu vực núi chính phía bắc. Đỉnh cao nhất trong số này là Monadnock ở miền nam New Hampshire. Monadnock là tên gọi để chỉ các vùng đá cứng đã trở thành những ngọn núi thấp đứng độc lập do lớp đá xung quanh đã bị nước cuốn trôi. Một ngọn núi tương tự như vậy, Katahdin, nổi bật trong cảnh quan vùng trung tâm Maine.
Mặc dù núi non là đặc điểm chính của miền bắc New England (gồm cả New York) nhưng con người ở đây lại sinh sống và làm ăn tại các thung lũng và vùng đất trũng. Ba khu vực lớn nhất là Thung lũng sông Connecticut giữa New Hampshire và Vermont, vùng đất thấp Hồ Champlain trải dọc phía bắc ranh giới Vermont-New York, và Thung lũng Aroostook thuộc miền Bắc Maine. Một số dải đất thấp hẹp hơn nằm tiếp giáp với bờ biển và vô số con suối chảy trên cao nguyên chia cắt nó.
Bypassed East là nơi các hệ thống khí hậu biển, lục địa và địa cực pha trộn vào nhau để tạo ra một kiểu khí hậu hiếm khi nóng, hay lạnh và thường xuyên ẩm ướt. Do nằm ở phía đông nước Mỹ, vùng đất này chịu ảnh hưởng của hệ thống gió mà xu hướng của nó là hạn chế tác động của khí hậu biển và đem đến đây kiểu khí hậu lục địa. Hơn nữa, những độ cao lớn hơn ở trong đất liền càng làm rõ nét thêm sự khác biệt lớn về khí hậu giữa khu vực nội địa và vùng bờ biển.
Dòng biển lạnh Labrador chảy về phía nam dọc theo Bypassed East. Ngay cả vào mùa hè, chỉ những tay bơi dũng cảm nhất mới dám đắm mình vào đó trong chốc lát. Nhờ nằm gần dòng biển này mà khí hậu dọc bờ biển trở nên ôn hoà. Mùa sinh trưởng ở những vùng gần bờ biển dài hơn 70 ngày so với mức trung bình 120 ngày trong lục địa. Vào giữa mùa đông, nhiệt độ ở khu vực bờ biển thường cao hơn nhiệt độ trong nội địa từ 30C đến 60C. Mùa hè thì ngược lại, khu vực nội địa bao giờ cũng nóng hơn một chút.
Tác động của khí hậu biển có thể cảm nhận được qua những đám mây và sương mù, đặc biệt là dọc theo bờ biển phía nam, khiến cho khí hậu mùa hè càng thêm mát mẻ. Đây là một trở ngại lớn cho việc phát triển những loại cây trồng đòi hỏi ánh nắng chói chang và nhiệt độ mùa hè.
Lượng mưa hàng năm tại hầu hết các khu vực trong vùng đều rất lớn, đạt 100 đến 150 cm. Bên cạnh đó, khối lượng tuyết rơi cũng đáng kể, khoảng 25% đến 50% tổng lượng hơi ẩm trong vùng được tiếp nhận dưới dạng tuyết. Trong nội địa, lượng tuyết rơi trung bình ít nhất là 250 cm/năm. Khác với vùng gần bờ biển, nơi mặt đất ít bị tuyết bao phủ và nếu có thì cũng nhanh tan, phía sâu trong đất liền, hàng năm vào mùa đông, tuyết thường che kín mặt đất từ 3 đến 5 tháng.
Dân số và công nghiệp
Bypassed East không phải là vùng đất dễ sinh sống và làm việc. Khí hậu khắc nghiệt, địa hình đồi núi, lại thêm lớp đất mỏng và đầy sỏi đá khiến nông nghiệp khó phát triển, ngoại trừ một vài nơi được thiên nhiên ưu đãi. Cho đến tận gần đây, hầu như không có mỏ khoáng chất nào với trữ lượng đáng kể được phát hiện. Tình hình đó, cộng với một thị trường địa phương nhỏ bé và tách biệt, là lý do hạn chế sự phát triển của sản xuất. Chính vì thế nên những lợi thế khác mà khu vực này có được trở nên quan trọng hơn.
Trên thực tế, khu vực này không phải lúc nào cũng là Bypassed East. Vị trí nhô cao ra Đại Tây Dương của nó có nghĩa rằng bờ biển ở đây nằm trong số những vùng đất đầu tiên của Tân Thế Giới mà những nhà thám hiểm và người đến lập nghiệp từ châu Âu đặt chân lên. Vào giữa thế kỷ thứ 17, rất nhiều trong số các cảng nhỏ thuộc trung tâm và nam Maine là nơi tập trung các ngôi làng của người Anh. Việc định cư bị những người Mỹ bản địa ngăn cản không cho tiến vào nội địa, cho đến giữa thế kỷ thứ 18.
Đối với những người châu Âu đến lập nghiệp đầu tiên thì các bãi đánh cá dồi dào hải sản ngoài khơi bang Maine có vai trò quan trọng trực tiếp. Đây là khu vực nước nông, chỉ sâu 30 đến 60 mét, và dày đặc cá các loại. Chính nhờ nước nông mà ánh nắng mặt trời có thể xuyên qua được lớp nước tạo điều kiện thuận lợi cho sinh vật phù du, một loại thức ăn chính cho nhiều loài cá, sinh sôi nảy nở. Những loài cá nước lạnh như cá thu và loài cá tuyết nhỏ nhiều không kể xiết. Từ nguồn hải sản này, những người đến lập nghiệp đầu tiên đã bắt đầu xuất khẩu một lượng đáng kể cá thu ướp muối.
Một nguồn tài nguyên quan trọng nữa trong vùng là cây thân gỗ. Điển hình là thông trắng, mọc đầy trong các khu rừng của New England. Đó là một loài cây đẹp, thẳng đứng và cao trên 60 mét. Gỗ của nó mịn, nhẹ, nhưng chắc khoẻ và dễ cắt. Ngày nay, rừng nguyên sinh hầu như không còn nữa. Các khu rừng thứ sinh cấp hai và ba còn lại có độ cao thấp và kém quan trọng so với vùng rừng trước kia. Nhờ có tài nguyên rừng mà bang Maine đã trở thành trung tâm của ngành công nghiệp đóng tàu.
Nông nghiệp là ngành lớn thứ ba trên vùng đất của những người đến lập nghiệp đầu tiên nhưng trang trại ở đây thường nhỏ và sản phẩm còn hạn chế. Nghề nông ban đầu chủ yếu chỉ để cung cấp lương thực cho chính những người dân trong vùng.
Có lẽ, thời kỳ hoàng kim của ngành nông nghiệp ở Bắc New England là vào đầu thế kỷ thứ 19. Nhưng ngay sau đó, hai sự kiện lớn diễn ra tác động trở lại khiến cư dân rời bỏ trang trại của họ tại đây, lúc đầu theo từng nhóm nhỏ và sau đó là hàng loạt. Sự kiện lớn nhất là việc mở cửa miền Tây. Các trang trại màu mỡ ở phía nam Great Lakes là đích đến của nhiều người di cư sau khi vượt qua được dãy Appalachia vào đầu thế kỷ trước. Sau đó không lâu, vào thập niên 20 của thế kỷ thứ 19, kênh Erie, và tiếp theo là nhiều con kênh khác xa hơn về phía tây, được xây dựng, tạo điều kiện cho nông dân miền Tây có thể dễ dàng tiếp cận với thị trường khu vực bờ biển phía đông. Các trang trại nghèo nàn trên vùng cao nguyên New England nhanh chóng đánh mất thị trường của mình do nông sản được nhập ồ ạt từ nhiều bang khác như Ohio và Indiana. Nông dân rời bỏ New England và hòa vào dòng người di cư về phía tây, họ chia tay với những trang trại cằn cỗi nơi đây để tìm đến những vùng màu mỡ hơn.
(Nguồn: Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com