Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (5): Môi trường tự nhiên - Phần 3

Đất trồng

Đất ở một nơi nào đó có được những đặc trưng của nó là do những yếu tố như chất liệu đá gốc, khí hậu, địa hình và các loại động thực vật bị phân huỷ. Hàng trăm loại đất khác nhau sinh ra từ sự tác động qua lại của những yếu tố này. Tính chất độc đáo của mỗi loại đất bất kỳ là do sự hỗn hợp của các thuộc tính (như màu sắc, kết cấu) và thành phần (bao gồm hàm lượng chất hữu cơ và tác động của các colloid trong đất.)

Colloid là những mẩu đất nhỏ. Các thuộc tính và ảnh hưởng của chúng lên đất rất phức tạp và thường là quan trọng. Ví dụ, tính axít của đất (hay tính kiềm) là kết quả của sự thay đổi và kết hợp của các colloid trong đất. Đất có axít là kết quả của của các loại khí hậu ẩm và lạnh, đất kiềm điển hình thường thấy ở những vùng khô. Phần lớn đất trong các vùng nông nghiệp trọng điểm của miền đông Hoa Kỳ là có độ axít từ trung bình đến cao. Vì thế, người ta phải định kỳ bổ sung thêm vôi để trung hòa lượng axít đó trước khi sử dụng đất này vào trồng trọt.

Màu sắc có lẽ là thuộc tính rõ rệt nhất của đất. Màu sẫm thường cho biết đất giàu chất hữu cơ, màu đỏ là dấu hiệu của những hợp chất chứa sắt. Nhưng nói chung, màu sắc là kết quả của các quá trình hình thành nên đất. Ví dụ, đất màu xám nhạt của rừng lá kim miền bắc là kết quả của việc lọc các chất hữu cơ và khoáng chất từ lớp đất trên bề mặt.

Kết cấu của đất, yếu tố quy định khả năng giữ nước và vận chuyển nước, là tỷ lệ các mẩu đất có kích thước rất khác nhau. Cát là thước đo đơn giản nhất về kết cấu đất, bùn là thước đo ở mức trung bình, còn đất sét là thước đo tinh vi nhất. Đất mà được gọi là “mùn” chứa tỷ lệ cao của mỗi một trong ba thành phần này và được coi là đất tốt nhất. Loại đất này đủ mịn để giữ được độ ẩm, song cũng không quá mịn để không thể giữ nước được dễ dàng.

Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đã xây dựng một hệ thống phân loại đất, trong đó định rõ những loại đất quan trọng nhất cho một vùng của đất nước. Đất khô cằn chủ yếu có ở tây nam, do khô cằn nên được đặt cho tên gọi đó. Loại đất của khí hậu khô này chứa rất ít chất hữu cơ và hầu như không có giá trị về mặt nông nghiệp. Đất spodosols phát triển trong miền khí hậu mát, ẩm, mặc dù nó được thấy ở bắc Florida. Loại này cũng nhiều axít và ít chất dinh dưỡng và chỉ có giá trị nông nghiệp đối với những cây trồng ưa axít. Đất lạnh cũng hầu như không có giá trị về nông nghiệp, gắn với khí hậu lạnh và ẩm như ở Alaska. Loại đất này nông, thường xuyên bão hòa nước và có lớp đất kề với lớp bề mặt bị đóng băng quanh năm. Đất cao nguyên có ở tây Virginia, Utah và Alaska, hầu như không phát triển và không có giá trị nông nghiệp.

Mollisols là đất đồng cỏ của khí hậu nửa khô và nửa ẩm thuộc trung tâm, bắc trung tâm, và Tây Bắc Thái Bình Dương nước Mỹ. Loại đất này rất dày, màu sẫm từ nâu tới đen, và có kết cấu lỏng với hàm lượng chất dinh dưỡng cao. Nó nằm trong số những loại đất trồng trọt tự nhiên phì nhiêu nhất của thế giới và sản xuất ra hầu hết ngũ cốc của nước Mỹ.

Alfisols là loại đất đứng thứ hai chỉ sau mollisols về mặt giá trị nông nghiệp. Nó là đất của những khu rừng ở vĩ độ giữa và nằm trên đường phân chia giữa vùng đất rừng và vùng đồng cỏ. Nó thật sự là đất “trung gian” theo nghĩa khí hậu. Loại đất này có ở những khu vực đủ ẩm ướt để cho phép tích luỹ phần đất sét nhưng không quá ẩm để tạo nên một thứ đất đã bị lọc hoặc bị biến dạng.

Alfisols được chia thành ba loại, mỗi loại có đặc trưng khí hậu riêng biệt đi kèm. Udalfs là đất của những cánh rừng thay lá hàng năm của vùng Middle West. Dù có một chút axít, loại đất này có năng suất rất cao nếu được bón vôi để giảm bớt lượng axít đó. Ustalfs được thấy ở những vùng ấm áp hơn với những khác biệt lớn về lượng mưa theo mùa, là loại đất phổ biến nhất ở Texas và Oklahoma. Nếu có thủy lợi thì đây là loại đất cho năng suất rất cao. Xeralfs là đất của mùa đông lạnh và ẩm, còn mùa hè thì nóng và khô. Nó có nhiều ở trung và nam California và cũng có năng suất rất cao.

Ultisols thể hiện giai đoạn cuối cùng của sự biến dạng và kiến tạo đất trồng ở Hoa Kỳ. Nó phát triển ở những vùng có lượng mưa dồi dào và có những thời kỳ dài không bị sương giá, như miền nam. Kích thước các mẩu đất nhỏ, và phần lớn những chất có thể hòa tan và đất sét đã bị chuyển xuống bên dưới. Loại đất này có thể cho năng suất cao, song độ axít cao, hiện tượng thấm lọc và xói mòn cũng thường là những vấn đề cần quan tâm.

Entisols là loại đất hình thành gần đây, quá trẻ để có thể cho thấy những hiệu ứng điều chỉnh của môi trường xung quanh. Loại đất này phân tán trên diện rộng và có nhiều hình thái, từ các Đồi Cát (Sand Hill) ở Nebraska, cho đến những cánh đồng ngập nước đầy phù sa của thung lũng sông Mississippi. Tiềm năng nông nghiệp của entisols rất thay đổi, song đất của cánh đồng nước phù sa, được tụ về từ những lớp đất cao hơn màu mỡ của thượng nguồn, thuộc loại đất trồng có năng suất cao nhất của nước Mỹ.

Các nguồn khoáng sản


Có một sự kết hợp đặc biệt giữa vị trí của những khoáng sản có khả năng đáp ứng được nhu cầu của ngành công nghiệp nặng với cấu trúc đá ngầm của đất. Mỗi trong số ba loại đá chủ yếu - đá trầm tích, đá biến dạng và nham thạch - đều có khả năng chứa đựng một loại khoáng chất rất hữu ích cho con người về mặt kinh tế. Đá trầm tích và đá biến dạng có nhiều nhất và khả năng chứa đựng những khoáng chất có giá trị sử dụng đáng kể cũng lớn hơn loại đá nham thạch.

Đá trầm tích là kết quả của sự dần dần ổn định những mảnh cứng, nhỏ trong khối nước bất động. Ví dụ: nếu một biển nông nằm kề ngay bên cạnh một vùng thiên nhiên khô cằn, lâu lâu lại có mưa bão, thì những mảng cát sẽ được xô xuống biển và rải khắp đáy biển, do tác dụng của các dòng nước và của trọng lực. Khi quá trình này tiếp diễn, mỗi lớp cát sẽ đè lên lớp trước nó, nén và gia cố khối cát đã được tích luỹ từ vài ngàn năm trước đó. Khi đáy biển này được nâng lên và dồn lại thành những trái núi, do những biến động của vỏ trái đất, thì phương pháp hình thành nên ít nhất là một số loại đá đã được khám phá nhờ sự hiện diện của những lớp sa thạch.

Cách đây khoảng 300 triệu năm, vào thời mà các nhà nghiên cứu lịch sử trái đất thường gọi là Kỷ Than đá Thời kỳ Đồ đá cũ, những điều kiện ở hầu hết các vùng đất đã kiến tạo ra những diễn tiến không bình thường của đá trầm tích. Những khu vực đầm lầy sâu và mọc đầy cỏ dại bị một lớp đá trầm tích khác lấp đầy và bao phủ. Trong một số trường hợp, chất hữu cơ chuyển sang có dạng lỏng, bị kẹt giữa những nếp đá không thấm qua được, và cuối cùng được rút ra thành dầu mỏ. Phần lớn những mỏ dầu này được tìm thấy cùng với một sản phẩm phụ khác của thời kỳ này - đó là khí đốt tự nhiên. Trong những trường hợp khác, chất hữu cơ biến thành những lớp than cứng, đôi khi chỉ dày mấy centimet, song có lúc được phát hiện dày tới cả chục mét.

Ở Bắc Mỹ có những khu vực rộng lớn bên dưới được lót bằng lớp đá trầm tích tạo thành từ Kỷ Than đá. Những vùng này, nơi có thể tìm thấy than đá, dầu, hay khí tự nhiên, nằm ở nội địa và Great Plains, các phần của đồng bằng ven biển vùng Vịnh, một số nơi thuộc các núi và thung lũng Thái Bình Dương và có dạng bị nứt, vỡ dọc theo mép phía tây của Cao nguyên Appalachia và tới phần đông của Núi Đá (Rockies).

Trữ lượng lớn của các nhiên liệu khoáng sản được phát hiện trên khắp các vùng rộng lớn của những khu vực trũng có trầm tích này. Những mỏ than quan trọng nhất ở Mỹ đã được khai thác trên những khu vực gồ ghề hơn của Appalachia. Những mỏ nằm ở khu vực gần như liên tục này, đông Kentucky, tây Virginia và tây Pennsylvania, được đưa vào sản xuất sớm nhất và chúng thường xuyên cung cấp hơn một nửa nhu cầu than của nước Mỹ.

Cho đến gần đây, hầu hết lượng than còn lại trong số than được khai thác ở Hoa Kỳ là từ Mỏ nội địa miền Đông (Eastern Interior Field), bao trùm phần lớn Illinois và phía tây Kentucky. Mặc dù một phần than của Eastern Interior Field được sử dụng vào việc sản xuất sắt thép, do có hàm lượng sulfur cao nên công dụng của nó trong đốt nóng và phát điện rất bị hạn chế.

Mỏ nội địa miền Tây (Western Interior Field) cũng rộng lớn, nằm bên dưới Iowa và Missouri, với một dải hẹp mở về hướng nam tới vùng đông Oklahoma. Than ở khu vực này có chất lượng kém hơn một chút so với than miền đông và gần đây mới bắt đầu được khai thác.

Có nhiều mỏ nhựa đường nhỏ và một vài mỏ lớn nằm rải rác trong và dọc gờ phía đông của Rocky Moutain. Những mỏ lớn ở Wyoming và Montana đã được đưa vào sản xuất trong hai thập niên qua. Phía bắc Great Plains cũng có một số mỏ than nâu lớn.

Những trữ lượng dầu mỏ và khí đốt nằm rải rác được phát hiện trên toàn vùng than Appalachia. Phía nam Illinois và nam - trung tâm Michigan, cũng như một số mỏ nằm rải rác khắp bắc Great Plains và bắc Rockies là những nơi tham gia sản xuất dầu.

Nhưng quan trọng nhất có lẽ vẫn là những mỏ dầu ở các đồng bằng phía nam, dọc theo bờ Vịnh và nam California. Một vòng cung lớn các giếng dầu đang sản xuất nằm dọc theo toàn bộ chiều dài của các bờ biển Texas và Louisiana. Một vòng cung gãy khác kéo dài từ trung tâm Kansas xuống phía nam qua Oklahoma, hướng sang tây qua trung tâm Texas tới New Mexico. Giữa hai vùng rộng lớn này là hai mỏ nữa rất quan trọng là mỏ đông Texas và mỏ Panhandle ở tây bắc Texas. Tách rời với những mỏ này nhưng không kém phần quan trọng là những mỏ nằm ở nam California. Vào giữa những năm 1960, việc khai thác các trữ lượng dầu mỏ và khí đốt tự nhiên đã bắt đầu dọc theo sườn bắc của Alaska.

Đá biến dạng được tạo thành theo một cách thức khác hẳn với đá trầm tích. Dưới sức ép ghê gớm gây ra qua quá trình biến dạng dần dần của vỏ quả đất, kết cấu bên trong của những loại đá đã hình thành trước đây có thể bị biến dạng hoặc thay đổi. áp lực gây nên qua hàng ngàn năm và nhiệt lượng sinh ra lớn đến mức chính cấu trúc phân tử của đá đã bị thay đổi. Sự biến đổi này chỉ cho thấy vì sao những khoáng sản kim loại với trữ lượng có thể khai thác được về mặt kinh tế lại thường hay có nhất ở những vùng có đá biến dạng.

Nhiều khu khai thác dành cho giai đoạn khai thác ban đầu những khoáng sản kim loại được đặt gần các đường gờ của Canadian Shield. Hình mẫu sản xuất khoáng sản đi theo một vòng cung dài từ bắc Đại Tây Dương và cửa sông St. Lawrence qua Great Lakes và tiến lên phía bắc qua Canada tới Bắc Băng Dương. Vòng cung này tiếp tục trên cả hai bờ của Hồ Superior: ở bắc Michigan, Wisconsin, và Minnesota với đồng và sắt.

Vùng đá biến dạng thứ hai nằm dọc theo phía đông dãy Appalachia. Đồng và sắt là những khoáng sản quan trọng được những người định cư đầu tiên ở New England tìm thấy ở địa phương này.

Vùng khoáng sản kim loại thứ ba, rất rộng lớn được tạo thành bởi các núi ở phía tây. Những mỏ vàng và bạc nằm phân tán, một số trong đó có trữ lượng lớn đã thu hút những người thăm dò và các công ty khai thác tới những vùng xa xôi, từ phía nam của biên giới Mexico tới miền trung tâm Alaska. Có tầm quan trọng lớn về công nghiệp là những trữ lượng lớn đồng, kẽm, chì, molybđen và uraniom có ở phía tây khu vực này, cùng với những trữ lượng nhỏ hơn vônfram, crôm, mănggan và những khoáng sản khác.

Không nên cho rằng những đòi hỏi của nền công nghiệp Mỹ được đáp ứng hoàn toàn bởi những khoáng sản phong phú và dồi dào tìm thấy ở ba vùng đá biến dạng này. Có một vài khoáng chất cần cho công nghiệp hiện đại (như thiếc, mănggan, bôxít cao cấp để sản xuất nhôm) mà ở Mỹ không có đủ khối lượng cần thiết để đáp ứng nhu cầu nội địa. Ngoài ra, sự tăng trưởng của tiềm lực công nghiệp đi đôi với tăng cầu về khoáng chất. Tuy nhiên, xét về khối lượng và tính đa dạng ban đầu của khoáng sản kim loại và nhiên liệu có ở nước Mỹ thì không mấy quốc gia có được bằng hay thậm chí gần bằng nước này.

Nguồn khoáng sản dồi dào này có vai trò hết sức quan trọng trong việc hỗ trợ sự phát triển của tổ hợp công nghiệp, chế tạo khổng lồ của nước Mỹ.

 

(Nguồn: Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam)

  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (1): Các chủ đề và khu vực - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (2): Các chủ đề và khu vực - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (3): Môi trường tự nhiên - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (4): Môi trường tự nhiên - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (5): Môi trường tự nhiên - Phần 3
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (6): Những nền tảng hoạt động của con người - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (7): Những nền tảng hoạt động của con người - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (8): Khu siêu đô thị - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (9): Khu siêu đô thị - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (10): Khu siêu đô thị - Phần 3
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (11): Vùng trọng điểm chế tạo - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (12): Vùng trọng điểm chế tạo - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (13): Miền đông bị quên lãng - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (14): Miền đông bị quên lãng - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (15): Appalachia và Ozark - Phần 1