Seedlink chiêu sinh hè 2015 các lớp học hát cho trẻ em tại Hà Nội
Seedlink chiêu sinh hè 2015 các lớp học múa cho trẻ em tại Hà Nội
Dân số và công nghiệp (Tiếp theo)
Sự kiện thứ hai khiến cho ngành nông nghiệp trong vùng điêu đứng cũng diễn ra vào cuối những năm 1700 đầu những năm 1800, với sự phát triển của ngành công nghiệp ở phía nam New England, nơi khởi đầu của cuộc cách mạng công nghiệp ở Hoa Kỳ. Công nghiệp tăng trưởng khiến cho nhu cầu về lao động tăng mạnh. Đông đảo nông dân vùng New England, những người đang muốn có nguồn thu nhập ổn định mà công việc trong ngành công nghiệp có thể đem lại, là những người đầu tiên đáp ứng yêu cầu này. Lao động phụ nữ và trẻ em gia tăng, đặc biệt trong các nhà máy dệt, càng tăng thêm giá trị của lao động công nghiệp so với nông nghiệp.
Một thế kỷ rưỡi vừa qua đã chứng kiến sự giảm sút liên tục của ngành nông nghiệp trên hầu khắp Bypassed East. Ngày nay, đất nông nghiệp của ba bang thuộc bắc New England chiếm chưa đến 10% tổng diện tích, cách đây 100 năm, con số này là 50%. Cho đến tận một vài thập niên gần đây, ở nhiều thành phố trên miền bắc New England vẫn tồn tại mô hình dân số giảm đã kéo dài hơn một thế kỷ nay. Các vùng đất dốc không được sử dụng để canh tác nữa lại dần dần biến thành rừng. Thậm chí, ngay trong các thung lũng, đất cũng thường quá khô cằn, khí hậu quá lạnh và các trang trại quá nhỏ nên khó có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp thành công.
Ở những vùng thuộc Bypassed East mà nông nghiệp còn giữ một vai trò quan trọng thì sản xuất có xu hướng chuyên môn hóa vào một thứ cây trồng và chỉ tập trung vào một số ít vùng có điều kiện thuận lợi. Ví dụ, nhờ có lớp đất axít trên bề mặt mà Washington County, thuộc khu vực đông bắc của bang Maine, đã trở thành một trong những trung tâm chính của nước Mỹ sản xuất cây dâu tây xanh.
Mặc dù nông nghiệp còn có mặt ở một số nơi khác nhưng trong vùng cũng có hai khu vực sản xuất nông nghiệp đáng được chú ý. Thứ nhất là thung lũng St. John-Aroostook - một khu vực thuộc đông bắc bang Maine và miền tây New Brunswick (Canada). Lớp đất bùn phù sa ở đây quả là lý tưởng cho khoai tây phát triển, và mùa sinh trưởng ngắn đã khuyến khích phát triển một loại cây trồng cao cấp được sử dụng rộng rãi ở nhiều vùng khác là khoai tây giống. Phương thức sản xuất nông nghiệp cơ giới hóa trên quy mô lớn hoàn toàn chiếm ưu thế.
Những người trồng khoai tây trong thung lũng này đã trải qua một thời kỳ khó khăn kéo dài suốt mấy thập kỷ qua mà nguyên nhân là do nhu cầu trên thị trường đối với sản phẩm này giảm, đồng thời về phía người tiêu dùng, họ ưa chuộng khoai tây của nông dân miền Tây hơn. Kết quả là, hiện nay, gia cầm và trứng, chủ yếu của các nhà sản xuất lớn ở nam - trung tâm Maine, chiếm tới một nửa thu nhập từ nông sản của bang, tức là gấp đôi nguồn thu từ khoai tây.
Khu vực thứ hai là vùng đất thấp Hồ Champlain. Nhờ nằm gần Megalopolis mà nó có được lợi thế lớn so với các vùng xa xôi khác trong việc tiêu thụ sữa, một mặt hàng có sản lượng lớn, giá thành thấp, dễ hỏng và không để lâu được. Vùng đất thấp Champlain cung cấp sữa cho cả thành phố New York và Boston. Đặc trưng của mùa hè ở vùng đất này là khí hậu ôn hòa và ẩm ướt, do vậy, rất thuận lợi cho sự sinh sôi của các loài cỏ làm thức ăn cho gia súc. Hơn nữa, khí hậu mát mẻ cũng rất thuận lợi thích hợp với đàn bò sữa. Chính vì thế, từ lâu Vermont luôn đứng đầu nước Mỹ về khối lượng sản phẩm chế biến từ sữa trên đầu người. Chăn nuôi bò lấy sữa, chủ yếu là ở vùng đất thấp của Champlain, chiếm tới 90% toàn bộ hoạt động nông nghiệp của bang.
Phần lớn diện tích Bypassed East được cây cối che phủ, vì thế sự vắng bóng của ngành chế biến gỗ trên quy mô lớn là một điều đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên, tình trạng khai thác gỗ không được kiểm soát trước đây và hạn chế trong hoạt động trồng lại rừng có tổ chức có nghĩa là rừng tái sinh ngày nay không đảm bảo chất lượng cho cả ngành sản xuất bột giấy và chế biến gỗ.
Một ngoại lệ đối với tình trạng sản lượng hạn chế này là sản lượng gỗ làm bột giấy của vùng bắc Maine. Tại đây, trên một số vùng đất rộng lớn và khó xâm nhập nhất ở phía đông Hoa Kỳ - nơi mà các ông chủ tư nhân nắm quyền kiểm soát hầu như toàn bộ đất đai - lâm nghiệp vẫn giữ một vai trò quan trọng.
Ngư nghiệp cũng là một bộ phận quan trọng mặc dù đáng lo ngại của nền kinh tế Bypassed East. Sản lượng tôm hùm mà Maine đánh bắt được chiếm 80% đến 90% tổng sản lượng tôm hùm của toàn Hoa Kỳ, đồng thời bang này cũng đứng đầu cả nước về đánh bắt cá mòi.
Có hai kiểu đánh bắt hải sản trong vùng. Kiểu đánh bắt quan trọng nhất là đánh bắt ven bờ, sử dụng thuyền nhỏ và cần tương đối ít vốn đầu tư, sản phẩm thu được có giá trị nhất là tôm hùm và cá tuyết. Thứ hai là đánh bắt xa bờ ở những vùng biển sâu. Đây là hình thức đòi hỏi phải có thuyền cũng như vốn đầu tư lớn hơn nhiều. Hải sản bắt được ngoài khơi xa thường là những loài cá sống dưới đáy nước sâu như cá tuyết, thờn bơn, và cá chim lớn.
Gần đây, hình thức đánh bắt cá xa bờ bị đe doạ bởi nhu cầu cao đối với xăng nội địa của Mỹ. Những mối lo ngại về ô nhiễm có thể xảy ra tại các bãi đánh bắt dồi dào hải sản do hậu quả của việc khoan dầu ngoài khơi xa đã bị bác bỏ vào năm 1979 khi Bộ Nội vụ cấp giấp phép thăm dò và khai thác dầu mỏ cho một số công ty, một số mỏ dầu và khí thiên nhiên lớn đã được phát hiện.
Hiện tại, các ngành khai khoáng khác ngoài dầu mỏ và khí thiên nhiên ngoài khơi không có vai trò quan trọng tại Bypassed East. Song, vẫn có những ngoại lệ. Quặng sắt đã được khai thác ở Adirondacks từ hơn 100 năm nay và trữ lượng sắt ở đó còn rất lớn nhưng tổng sản lượng khai thác vẫn tương đối nhỏ.
Nhờ lớp đá hình thành từ nham thạch núi lửa mà miền bắc New England trở thành nơi sản xuất đá quan trọng từ nhiều năm nay. Nhiều mỏ khai thác đá granite hoạt động ở trung tâm Vermont và dọc theo bờ biển trung tâm của bang Maine. Vermont cũng là bang sản xuất đá cẩm thạch hàng đầu nước Mỹ. Tất nhiên, giá trị của những mỏ đá này còn nhỏ bé so với các loại khoáng sản tìm thấy ở nhiều vùng khác nhưng nó vẫn là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế của hai bang này.
Các thành phố và nhịp sống đô thị
Phần lớn dân chúng Bypassed East sống ở thành phố. Tuy nhiên, vùng này hầu như không có các khu đô thị lớn. Hai thành phố lớn nhất miền bắc New England là Burlington (bang Vermont) và Lewiston (bang Maine) với tổng số dân vào khoảng 40.000 người.
Quy mô nhỏ của các trung tâm quan trọng trong khu vực là một chỉ dẫn tốt về cái mà có thể là nguyên nhân chính của tình trạng các mức thu nhập bình quân đầu người trong vùng tương đối thấp. Tại Mỹ, hầu hết các nghề nghiệp mang lại thu nhập cao chỉ có thể kiếm được ở thành phố, trong khi khu vực này không có những nghề nghiệp đô thị. Số người tham gia vào các công việc sơ chế mà theo truyền thống ở Mỹ thường được trả công rất thấp, tuy chưa đến một nửa nhưng cũng chiếm một tỷ lệ cao trong tổng lực lượng lao động. Thị trường địa phương nhỏ bé và những khó khăn trong việc tiếp cận với các đô thị lớn đồng nghĩa với việc các ngành sơ chế trong vùng, khác với những nơi khác trên đất Mỹ, không tạo ra được nền móng cho sự phát triển của một nền kinh tế dựa nhiều hơn vào khu vực chế tạo.
Tuy nhiên, cũng có lý do để có thể dự đoán rằng kinh tế sẽ tăng trưởng ở bắc New England. Cuộc điều tra dân số năm 1980 cho thấy trong số các bang nằm ngoài miền Nam và Tây, chỉ có Maine, New Hampshire, và Vermont đạt được tỷ lệ tăng trưởng vượt mức trung bình trên toàn quốc. Trong những năm 1980, New Hampshire tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao hơn tỷ lệ bình quân của cả nước, còn Vermont và Maine cũng chỉ thấp hơn một chút so với con số bình quân.
Dường như có một số lý do giải thích sự thay đổi dân số trong vùng. Thứ nhất là sự phát triển dần về hướng bắc của Megalopolis. Khi các thành phố của vùng đô thị được mở rộng, khi khu vực ngoại vi được đô thị hóa và trở thành một bộ phận của nước Mỹ đô thị, và khi mọi người di chuyển ra khỏi trung tâm các thành phố lớn ồn ào để sinh sống ở những vùng xa hơn thì vùng ngoại ô Megalopolis được mở rộng dần sang hướng bắc về phía New England.
Miền Bắc New England đang có sức hấp dẫn đối với nhiều cơ sở sản xuất mới thiên về công nghiệp nhẹ với số lượng lao động ở mức trung bình. Người ta đang xây dựng các nhà máy ở đây một phần bởi vì cả giới chủ và công nhân của họ đều cảm thấy dễ chịu khi sống trong môi trường nông thôn và thị trấn nhỏ. Bên cạnh đó, giao thông liên lạc với các vùng khác cũng dễ dàng hơn nhờ một số xa lộ liên bang được xây dựng trong thập niên 1960.
Từ giữa thế kỷ thứ 20, ngành du lịch của New England phát triển mạnh mẽ. Tại đây, du khách có thể câu cá, trượt tuyết, đi ca nô, hoặc đơn giản là lái xe dạo chơi ngắm cảnh – tất cả những thứ đó góp phần vào sự tăng trưởng của ngành du lịch.
Nền kinh tế khu vực Adirondacks cũng phụ thuộc nhiều vào du lịch. Hồ Placid, nơi tổ chức Thế vận hội mùa đông năm 1932 và 1980, là một trong số rất nhiều khu trượt tuyết lý tưởng. Bang New York giám sát khu vực này thông qua công viên Adirondack State Park - công viên quốc gia lớn nhất nước Mỹ.
Những ngôi nhà nghỉ trải dọc theo bờ biển, xung quanh các hồ và rải rác trên khắp vùng núi xuất hiện ngày càng nhiều, đây chính là ngôi nhà thứ hai của giới thượng lưu. Mỗi năm, họ chỉ nghỉ ở đó một vài tháng, thậm chí một vài tuần, rồi cho thuê để lấy tiền trang trải chi phí mua, giữ gìn và sửa chữa ngôi nhà. Tại một số quận thuộc Bắc New England, kiểu nhà vừa để ở vừa cho thuê như thế này còn nhiều hơn cả các ngôi nhà thông thường.
Và sau cùng, nhiều cộng đồng ven biển bang Maine, các thị trấn nhỏ của Vermont và New Hampshire, và những ngôi làng cổ trong vùng đã trở thành trung tâm được nhiều người nghỉ hưu biết đến.
(Nguồn: Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com