Nhằm chống tình trạng vàng hóa và đô la hóa, dự luật Bảo hiểm tiền gửi quy định chỉ bảo hiểm đối với tiền gửi bằng VND của cá nhân.
Chiều nay (11/10), Ủy ban thường vụ Quốc hội (TVQH) họp bàn, góp ý về dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi.
Tại Điều 18 của dự thảo luật này quy định tiền gửi được bảo hiểm là tiền bằng đồng Việt Nam của cá nhân, không bảo hiểm đối với tiền gửi bằng ngoại tệ và tài sản khác.
Theo lý giải của cơ quan soạn thảo, chính sách này nhằm hướng tới mục tiêu chỉ sử dụng đồng Việt Nam và chống tình trạng đô-la hóa trong nước.
Tuy nhiên, về điểm này, có một số ý kiến cho rằng nên áp dụng bảo hiểm tiền gửi với cả ngoại tệ và vàng, kim loại quý… để phù hợp tình hình thực tế bởi một lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng thương mại hiện đang không được bảo hiểm.
Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính - Ngân sách Phùng Quốc Hiển lý giải, trong trường hợp người lao động ở nước ngoài có tiền gửi về nước bằng ngoại tệ mà không được bảo hiểm là không công bằng, quyền lợi của người gửi tiền không được đảm bảo.
Chủ nhiệm Hiển cho rằng, “Việc chống đô-la hóa là trách nhiệm, công việc của cơ quan quản lý nhà nước. Quy định chỉ có thể can thiệp bằng việc quy định, khi rút tiền sử dụng tại Việt Nam, người gửi tiền phải đổi ra VND để lưu thông”. Ông Hiển bức xúc, “phạm” vào quyền của người gửi tiền là không công bằng.
Tuy nhiên, người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho rằng ý kiến này không phù hợp thông lệ quốc tế cũng như chủ trương của Chính phủ trong 5 năm tới. Thống đốc khẳng định, phải chuyển từ quan hệ vay-gửi ngoại tệ sang quan hệ mua-bán. Theo đó, khi có ngoại tệ, người dân sẽ bán cho ngân hàng và mua khi có nhu cầu.
Cũng tại dự luật này có nêu quy định không bảo đảm tiền gửi của các hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Việc bảo hiểm tiền gửi cho các đối tượng này, theo phân tích, không phù hợp mục tiêu bảo vệ những người tiêu dùng nhỏ lẻ, thiếu thông tin.
Niềm tin của người gửi tiền không xuất phát từ bảo hiểm
Về tiềm lực của Quỹ bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Thống đốc Nguyễn Văn Bình thú nhận, khả năng bảo hiểm tiền gửi trong quá khứ, hiện tại và nhiều năm tới của chúng ta không thể nào đáp ứng được yêu cầu thực tế.
Giải trình trước TVQH, Thống đốc NHNN cho hay, qua hơn 10 năm kể từ thời điểm xuất hiện bảo hiểm tiền gửi, Quỹ bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam hiện có 7.000 tỷ đồng, bao gồm cả số vốn ban đầu được cấp là 1.000 tỷ đồng.
Phí áp dụng trước đến nay là 0,15% trên số tiền thuộc diện phải bảo hiểm - đây là mức rất thấp so với thông lệ quốc tế là từ 3-5%.
So sánh với các tổ chức tín dụng khác như Canada, Mỹ, do đã thực hiện trong một thời gian dài nên quỹ tích lũy cũng như khả năng bảo hiểm các nước này cũng lớn. Còn ở nước ta, mức 7.000 tỷ đồng hiện nay, ông Bình cho biết, nếu làm tiếp đến 10 - 20 năm sau vẫn chưa so sánh được với số tiền phải bảo hiểm.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng dẫn chiếu thực tế ở Mỹ, mỗi năm tới 100-200 ngân hàng đổ bể vẫn “không vấn đề gì” bởi khả năng chi trả bảo hiểm có thể lên 200-300 tỷ USD một lúc mà không cần tới sự can thiệp của Quỹ dự trữ Liên bang (FED).
Mong muốn của NHNN hiện nay, chỉ mới dừng ở tạo thói quen cho người dân, người gửi tiền. Còn trong hiện tại, niềm tin của người dân khi gửi tiền vào hệ thống tín dụng vẫn đang chủ yếu dựa vào những công cụ chính sách của NHNN, của Chính phủ chứ bảo hiểm tiền gửi chỉ có tính chất hỗ trợ thêm và đa dạng hóa thị trường tài chính mà thôi.
Lượng tiền nhàn rỗi ngoài hệ thống còn lớn
Báo cáo tổng kết thi hành pháp luật về bảo hiểm tiền gửi của NHNN cho hay, tuy hệ thống ngân hàng có sự phát triển cả về số lượng và quy mô nhưng sự tăng trưởng về lượng chưa tương đồng với sự tăng trưởng về chất.
Mức độ tiếp cận với khu vực ngân hàng của Việt Nam còn thấp. Một bộ phận khá lớn dân cư và doanh nghiệp còn ít tiếp cận dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dân cư ở vùng sâu và vùng xa, vùng nông thôn và các doanh nghiệp nhỏ. Vì vậy, một lượng đáng kể tiền nhàn rỗi vẫn chưa được gửi vào ngân hàng. Tốc độ tăng trưởng tiền gửi không theo kịp sự tăng trưởng tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế, khiến cho việc tăng trưởng thiếu bền vững.
Với vai trò là một trong các ngành dịch vụ của nền kinh tế, mức độ đóng góp cho tăng trưởng của dịch vụ về tài chính (trong đó bao gồm cả dịch vụ ngân hàng) còn thấp (chưa tới 2% cấu phần GDP) so với các nước trong khu vực như Thái Lan (6% GDP) và Malaysia (12% GDP).
Việt Nam đang phải đối mặt với khoảng cách thiếu hụt ngày càng lớn giữa nhu cầu đầu tư cho nền kinh tế và tiết kiệm nội địa, với mức độ chênh lệch lớn hơn so với các nước khác trong khu vực.
Bích Diệp
Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc.
(Báo điện tử Doanh nhân Việt Nam toàn cầu)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com