Cho doanh nghiệp (DN) vay vốn với lãi suất (LS) cao; “chặt chém” không thương tiếc trên thị trường liên ngân hàng... là những “phương án kinh doanh” đã giúp các ngân hàng kiếm lợi nhuận khủng giữa lúc kinh tế khó khăn.
Năm 2011, các ngân hàng lãi lớn trong khi nhiều doanh nghiệp phá sản. Ảnh: Ngọc Thắng. |
Đánh giá từ Tổng cục Thuế cho thấy, trong khi phần lớn DN rơi vào khó khăn, doanh thu và lợi nhuận sụt giảm, thậm chí thua lỗ phá sản thì lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh (chưa trừ trích lập dự phòng rủi ro) năm 2011 của hệ thống ngân hàng đạt khoảng 97.000 tỉ đồng, tăng gần 45% so với năm 2010. Nếu trừ đi các khoản trích lập dự phòng rủi ro, tốc độ tăng lợi nhuận cũng lên tới 30%.
Cho vay đắt đỏ
Theo báo cáo tài chính năm 2011, Ngân hàng thương mại cổ phần công thương (Vietinbank) có mức lợi nhuận đứng đầu trong hệ thống với tổng thu nhập hoạt động năm 2011 lên tới hơn 22.000 tỉ đồng, trong đó khoảng 70 - 80% từ hoạt động cho vay.
LS cao nhất mà ngân hàng này đưa ra trong bản cáo bạch lên tới 25%/năm. Trong khi đó, thu từ dịch vụ hơn 1.000 tỉ đồng chiếm 5%, lãi từ kinh doanh ngoại hối và vàng không đáng kể khoảng 382 tỉ đồng, lãi từ kinh doanh chứng khoán 10 tỉ đồng...
Sau khi trừ đi các khoản chi phí hoạt động, dự phòng rủi ro, thuế thu nhập DN, Vietinbank lãi tới gần 6.300 tỉ đồng. Quý 1/2012, khi số DN phá sản tiếp tục gia tăng, lợi nhuận của Vietinbank vẫn không ngừng tăng theo.
Họ là ngân hàng quốc doanh được NHNN hỗ trợ tái cấp vốn thoải mái, còn ngân hàng cổ phần lớn có nhiều giấy tờ có giá nên tham gia vay trên OMO với lãi suất thấp, rồi cho các ngân hàng nhỏ vay lại trên liên ngân hàng. Thời điểm lãi suất thị trường này lên tới vài chục phần trăm đó chính là lúc các ngân hàng nhỏ bị ngân hàng lớn làm thịt Tổng giám đốc một ngân hàng cổ phần quy mô nhỏ |
Cụ thể, tổng lợi nhuận trước thuế hơn 2.000 tỉ đồng, trong khi quý 1 năm ngoái chỉ hơn 1.000 tỉ đồng và lợi nhuận sau thuế 1.540 tỉ đồng, cao hơn 2011 hơn 997 tỉ đồng.
Ngoài Vietinbank, trong 2011 lợi nhuận sau thuế của Ngân hàng Xuất nhập khẩu (Eximbank) đạt 3.051 tỉ đồng, tăng 68,66%; Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đạt 5.700 tỉ đồng, tăng 4 % so với năm 2010.
Trao đổi với PV, nhiều DN tỏ ra khá bức xúc khi thấy ngân hàng lãi to, còn mình thì phải gánh vác khoản chi phí tài chính quá lớn trong đó có phần không nhỏ bởi lãi vay.
Ông Trần Chí Gia - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty CP may Meko (Khu công nghiệp Trà Nóc - Cần Thơ) cho biết, trong giai đoạn khó khăn trước đó, DN ông vay cả triệu USD từ các ngân hàng, sau đó làm ăn có lãi đã trả gần hết.
“Nhưng các ngân hàng để lãi suất quá cao khiến DN làm không đủ trả lãi. Trung Quốc để LS cho vay có 5% mà DN đã khốn đốn, Đài Loan thậm chí chỉ có 0,25%/năm để hỗ trợ. LS của ta cao như thế này, DN khó khăn lắm”, ông Gia buồn rầu nói.
Ông Trần Thanh Vân - Phó giám đốc Công ty CP Gentraco, một DN xuất khẩu gạo có tiếng tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, cũng cho rằng, với lãi vay quá cao thời gian qua, DN ông không dám vay tiền đồng. Mức LS ưu đãi dành cho DN xuất khẩu của ông khoảng 17-18%/năm tại các hợp đồng cho vay cũ khiến DN kinh doanh khó đảm bảo được sự hiệu quả.
“Thời gian qua LS đã giảm nhưng 13% thì mới nghe chứ chưa tiếp cận được. Trong điều kiện này, với mức 12% may ra còn kinh doanh được, nhưng DN phải giỏi xoay xở thì mới làm ăn có hiệu quả”, ông Vân nói.
“Nuốt” cá bé
Ngân hàng Nhà nước cho rằng, nếu so với tốc độ tăng vốn chủ sở hữu 22,85% và tăng quy mô tài sản 18,55% trong 2011 thì mức tăng lợi nhuận trên không đáng kể. Bởi hai chỉ số phản ánh hiệu quả kinh doanh là ROA (tỷ suất lợi nhuận/tổng tải sản) của các ngân hàng chỉ đạt 1,09% và ROE (tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu) 11,86%, thấp hơn 2010.
Thế nhưng theo kết quả tính toán, ROE trung bình của 8 ngân hàng niêm yết đạt 19,68%, cao hơn khá nhiều so với mức 15,24% của toàn thị trường. Trong đó, ROE của các ngân hàng như Á Châu, Vietinbank và Eximbank cao hơn 20%.
Riêng Vietinbank cao nhất hệ thống với ROE tới 25,4% và ROA là 1,96%. Nguồn gốc lợi nhuận của các ngân hàng này hầu hết đều có được bởi tỷ lệ lãi biên ròng (NIM) khá cao, tức chênh lệch giữa huy động và cho vay.
Kết quả tính toán cho thấy NIM của Vietinbank năm 2011 lên tới 5,03%, cao nhất trong số các ngân hàng. Sacombank có NIM đứng thứ hai với mức 4,48%. Trung bình 8 ngân hàng đang niêm yết có hệ số NIM lên tới 4,18%, cao hơn khá nhiều so với mức 3,64% năm 2009 và 3,37% năm 2010.
Lý giải về việc lợi nhuận tập trung vào một số ngân hàng lớn như nói trên, tổng giám đốc một ngân hàng cổ phần quy mô nhỏ, cho biết năm 2011 xảy ra vài đợt sóng thanh khoản, khan hiếm vốn, đặc biệt dịp cuối năm đã biến các ngân hàng nhỏ trở thành món mồi ngon cho các ngân hàng lớn, khi các ngân hàng lớn đẩy LS lên cao chót vót.
“Họ là ngân hàng quốc doanh được Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ tái cấp vốn thoải mái, còn ngân hàng cổ phần lớn có nhiều giấy tờ có giá nên tham gia vay trên OMO với LS thấp, rồi cho các ngân hàng nhỏ vay lại trên liên ngân hàng. Thời điểm LS thị trường này lên tới vài chục phần trăm đó chính là lúc các ngân hàng nhỏ bị ngân hàng lớn làm thịt, bất kể sự an toàn của hệ thống, sự sống chết của các ngân hàng nhỏ”, tổng giám đốc này bày tỏ.
Một chuyên gia phân tích, không thể đơn thuần nhìn vào chỉ số ROA của ngân hàng thấp mà đánh giá việc làm ăn không có lời, hay không hiệu quả, bởi thực tế ngân hàng muốn tăng tổng tài sản rất dễ. Ví dụ, họ có thể vay trên thị trường vài chục nghìn tỉ đồng trong vòng 2 ngày thì cũng đã làm tăng số tài sản lên rất nhanh. Tức việc cần tăng tổng tài sản rất dễ, tài sản đôi khi chỉ là ảo không phản ánh đúng quy mô của ngân hàng. |
(Theo Anh Vũ // Thanh Niên)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com