Rủi ro chéo từ TTCK, bất động sản và chính sách tài khoá đối với chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng là rất lớn. Đặc biệt là các NHTM nhỏ đang làm tích tụ nợ xấu cả trong ngắn hạn và trung hạn. Vấn đề này nếu không được xử lý kịp thời có thể sẽ ảnh hưởng xấu đến an toàn hệ thống ngân hàng và uy tín của Việt Nam.
Đây là một trong ba cảnh báo TS. Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia đưa ra trong cuộc trao đổi về tình hình kinh tế 6 tháng đầu năm 2011 và dự báo cho 6 tháng cuối năm.
TS. Lê Xuân Nghĩa nêu rõ, trong khi quan hệ lãi suất chuẩn tại châu Âu, lãi suất thị trường liên ngân hàng luôn xoay xung quanh lãi suất thị trường mở, thị trường tiền tệ Việt Nam gần đây không theo đúng điều này.
Ta thì lãi suất trung ương một đường, lãi suất liên ngân hàng một nẻo thì làm thế nào mà chỉ dẫn thị trường. Cho nên, đổ lãi suất cao do ngân hàng nhỏ là sai, không có cơ sở.
Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, chỉ có ngân hàng lớn mới nhận được tiền gửi của Kho bạc Nhà nước; mới có trái phiếu Chính phủ để tái chiết khấu tại ngân hàng trung ương; được các tập đoàn mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn lớn với lãi suất thấp; mới có vốn ODA làm dịch vụ giải ngân cho Chính phủ và có cơ hội huy động vốn thấp.
Trái với nhiều cơ hội và ưu thế như kể trên, các ngân hàng “nhỏ” chỉ có thể huy động tiền gửi của dân cộng với tiền gửi của doanh nghiệp cỡ vừa trở xuống. Thế thì đương nhiên họ phải huy động vốn cao lên.
Lý do các ngân hàng “nhỏ” chạy đua lãi suất như hiện nay, cũng theo ông Nghĩa, là vì trên thị trường liên ngân hàng, các ngân hàng lớn cho họ vay với lãi suất có thể đến 25% và không phạm luật. Thế thì dại gì họ không vay của dân 17-18%, mà kỳ hạn là như nhau.
TS. Lê Xuân Nghĩa nêu rõ, khi trần lãi suất huy động là 14%, những lách luật lại dẫn đến một rủi ro khác. Chưa bao giờ trong ngành ngân hàng có hai hệ thống báo cáo kế toán như bây giờ. Một hệ thống lãi suất huy động ghi là 14%, nhưng mà trên thực tế ngân hàng phải trả là 17-18-19%, thậm chí là 20%, vậy thì hạch toán như thế nào đây?
Và do hệ thống ngân hàng hạch toán điện tử hóa hoàn toàn nên một số ngân hàng phải sinh ra các định chế tài chính để chứa “cái gọi là méo mó này”.
Nhưng đáng quan ngại hơn, so với đường cong lãi suất chuẩn, các kỳ hạn dài lãi suất phải cao lên, thực tế đường cong lãi suất áp vào mức công bố của các ngân hàng thương mại gần đây đang đi ngang, thậm chí là đi xuống do lãi suất ngắn hạn cao hơn dài hạn.
TS. Lê Xuân Nghĩa nêu rõ, điều này là chưa bao giờ xảy ra, hy hữu mới có cái dạng như của Việt Nam hiện nay. Tức là sự méo mó khủng khiếp. Lỗi là tại điều hành chứ không phải lỗi tại thị trường, do chúng ta sử dụng quá nhiều biện pháp hành chính, sử dụng mệnh lệnh hành chính.
Theo nhìn nhận của nhiều chuyên gia, chính sách tiền tệ năm 2010 là khá giật cục và thiếu nhất quan, có tình trạng 6 tháng đầu năm thắt chặt, 6 tháng cuối năm nới lỏng, gây khó khăn cho hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Nửa đầu năm ngoái, tăng trưởng tín dụng mới khoảng 10%, nửa cuối năm nới lỏng khiến tín dụng tăng tới 31% so với cuối năm 2009. Tăng trưởng cung tiền M2 cũng tương tự, từ khoảng 7% trong nửa đầu năm thì đến cuối năm đạt con số 28% cao hơn cuối năm trước đó.
Tức là điều hành giật cục… tình trạng này còn kéo đến tận năm nay chứ chưa dừng lại. TS. Lê Xuân Nghĩa dự tính. Năm 2011, tăng trưởng tiền tệ 4 tháng đầu năm chỉ có khoảng 1%, tín dụng 4 tháng mới tăng có 5% so với cuối năm ngoái.
Thặt chặt tín dụng và cung tiền khiến thanh khoản nhiều ngân hàng khó khăn. Cũng chính vì điều này, mặt bằng lãi suất năm 2011 thậm chí còn cao hơn năm 2008, và có thể là cao nhất trong nhiều năm nay.
TS. Lê Xuân Nghĩa cũng cảnh báo rằng, với việc thắt chặt tiền tệ hà khắc như 6 tháng đầu năm nay (tổng phương tiện thanh toán chỉ khoảng 3%, trong khi chỉ tiêu này cả năm là 16%) và độ trễ của chính sách tiền tệ khoảng 5 - 6 tháng, thì tốc độ tăng trưởng GDP nửa cuối năm có thể sẽ giảm mạnh nếu không có những biện pháp hỗ trợ thích hợp. Điều này thể hiện rất rõ qua việc Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp (IIP) đã giảm từ 12,6% đầu năm 2011 xuống còn 9% vào tháng 6/2011.
Về rủi ro tỷ giá hối đoái, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, mặc dù tỷ giá đang ổn định nhưng nguy cơ biến động vào cuối năm là lớn với 3 lý do chủ yếu là tín dụng ngoại tệ tăng mạnh nửa đầu năm dẫn đến áp lực lớn khi các khoản nợ ngoại tệ đáo hạn; tỷ giá hối đoái hiện đang ổn định do lãi suất VND rất cao, nếu lạm phát giảm, lãi suất VND giảm cũng sẽ làm tăng tỷ giá hối đoái; tỷ giá hối đoái thực VND so với USD cho thấy VND còn bị đánh giá quá cao so với USD cũng là sức ép lớn đối với kỳ vọng tăng tỷ giá.
(Tamnhin)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com