Trường hợp cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán có mức độ rủi ro về tín dụng là không đáng kể nhưng vẫn chịu chung hệ số 250% theo quy định đối với các khoản cho vay để đầu tư chứng khoán - Ảnh: Quang Liên.
14 ngân hàng thương mại và công ty tài chính đưa ra những bất cập cũng như yêu cầu xem xét lại trong chính sách Ngân hàng Nhà nước mới ban hành.
Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) cho biết đã nhận được ý kiến phản hồi của 14 hội viên, đề cập khá chi tiết nhiều điểm được cho là bất cập và “có ảnh hưởng lớn” đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng trong Thông tư số 13/2010/TT-NHNN do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 20/5/2010, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/10/2010.
Trên cơ sở ý kiến của 14 hội viên, VNBA đã có văn bản gửi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đề cập các nội dung và khuyến nghị cụ thể.
Không để những nguồn vốn “nằm chết”
Điểm đầu tiên được nêu lên trong văn bản của Hiệp hội là những bất cập cần xem xét lại trong Điều 18 của Thông tư (Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động).
Theo Thông tư, tỷ lệ sử dụng vốn được tính theo công thức: Cấp tín dụng / Nguồn vốn huy động = 80% / 85%.
Trong công thức trên, VNBA nhấn mạnh đến vai trò của nguồn vốn tiền gửi không kỳ hạn và cho rằng quy định liên quan trong Thông tư là không hợp lý.
Cụ thể, theo nội dung Thông tư, nguồn vốn huy động sử dụng để cho vay không bao gồm tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế, Kho bạc Nhà nước, Bảo hiểm Xã hội và các tổ chức khác.
Theo VNBA, quy định trên là không hợp lý, vì tiền gửi không kỳ hạn của những đối tượng trên thường chiếm tỷ lệ từ 15% - 20% trong tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng. Đây là nguồn vốn có tính ổn định cao, VNBA dẫn khẳng định từ các ngân hàng thương mại.
Như vậy, ngoài tỷ lệ 20% của nguồn vốn huy động không được sử dụng để cho vay theo công thức trên, thì còn khoảng 15% tiền gửi không kỳ hạn kể trên không được sử dụng để cho vay. Do đó, phần nguồn vốn để đảm bảo khả năng thanh toán là 20% + 15% = 35% trên tổng nguồn vốn huy động. “Tỷ lệ này là quá cao, không hợp lý”, đầu mối đại diện cho các ngân hàng thương mại khẳng định.
Ngoài tiền gửi không kỳ hạn, theo VNBA, ở các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính còn có vốn tự có (phần còn lại sau khi đã trừ đi phần mua sắm tài sản cố định cho phép) và các loại vốn mang tính chất “coi như tự có” là những nguồn vốn do chính họ tạo ra như vốn khấu hao tài sản cố định, các quỹ… cũng cần được tính vào nguồn vốn huy động để cho vay.
Theo Thông tư, nguồn vốn huy động không bao gồm tiền vay tổ chức tín dụng trong nước trong khi lại bao gồm tiền gửi của tổ chức tín dụng trong nước. VNBA cho rằng, về bản chất 2 khoản mục này là tương đương về tính chất sử dụng, vì vậy, Ngân hàng Nhà nước nên bổ sung thêm khoản mục vay các tổ chức tín dụng trong nước vào nguồn vốn huy động.
“Những nguồn vốn này các tổ chức tín dụng phải sử dụng để tạo nguồn thu không thể để vốn nằm chết được, nhất là sắp tới vốn tự có và các quỹ của các tổ chức tín dụng ngày càng lớn. Theo quy định tại Điều 18 các loại vốn này không được tính vào trong mẫu số. Điều đó là không hợp lý. Vì vậy, VNBA đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho tính tất cả tiền gửi không kỳ hạn, vốn tự có và coi như tự có, tiền vay của các tổ chức tín dụng trong nước vào nguồn vốn huy động (mẫu số)”, văn bản của VNBA viết.
Đánh đồng các rủi ro?
Điều 5 Thông tư số 13 quy định về tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ của tổ chức tín dụng. Trong đó, Khoản 5.6 quy định về các tài sản có hệ số rủi ro là 250%. Ở đây cũng có bất cập khi hệ số 250% đó là mẫu số chung cho các đối tượng khác nhau, các mức độ rủi ro khác nhau.
Cụ thể, Điểm a Khoản 5.6 quy định các khoản cho vay để đầu tư chứng khoán có hệ số rủi ro bằng 250%. VNBA đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét lại với trường hợp cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán do mức độ rủi ro về tín dụng là không đáng kể.
Tương tự, ở Điểm c Khoản 5.6, việc quy định hệ số rủi ro 250% đối với tất cả các khoản vay kinh doanh bất động sản không phân biệt là bất động sản đã hình thành hay là tài sản hình thành trong tương lai, theo VNBA, là không phù hợp với mức độ rủi ro đối với từng loại tài sản khác nhau.
Với những bất cập trên, VNBA đề nghị: “Ngân hàng Nhà nước nên căn cứ vào mức độ rủi ro của khoản cho vay kinh doanh bất động sản để quy định hệ số rủi ro cho phù hợp, vì việc tăng hệ số rủi ro đối với các khoản vay kinh doanh bất động sản làm tăng tổng tài sản có rủi ro của ngân hàng lên rất nhiều, trong khi mức vốn tự có không thay đổi thì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của ngân hàng sẽ giảm đi đáng kể”.
Liên quan đến tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, Hiệp hội cũng cho biết nhiều ngân hàng không thể thực hiện được yêu cầu nâng từ 8% lên 9% vào thời điểm 1/10/2010 như Thông tư số 13 quy định.
Sẽ có thêm loạt văn bản hướng dẫn?
Một nội dung thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư số 13 là giới hạn góp vốn, mua cổ phần (tập trung ở Điều 16). Tuy nhiên, khi thông tư đã ban hành và sắp có hiệu lực, nhiều thành viên vẫn chưa rõ về một số trường hợp điều chỉnh.
Trong văn bản gửi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Hiệp hội Ngân hàng cũng không rõ các tổ chức tín dụng đang ủy thác đầu tư ở nước ngoài theo dịch vụ quản lý tài sản để đầu tư vào các loại chứng khoán ở nước ngoài có chịu điều chỉnh của giới hạn Thông tư 13 đặt ra hay không?
Trường hợp tổ chức tín dụng góp vốn vào doanh nghiệp khác để đầu tư vào một dự án mà giá trị của dự án đầu tư lớn hơn vốn điều lệ của doanh nghiệp đó thì giới hạn góp vốn được xác định theo vốn điều lệ của doanh nghiệp hay giá trị của dự án đầu tư?
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 12 Nghị định 69/2002/NĐ-CP về việc xử lý nợ tồn đọng của doanh nghiệp nhà nước, tổ chức tín dụng được quyết định chuyển dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa thành vốn góp vào công ty cổ phần khi doanh nghiệp có khó khăn về tài chính. Như vậy, nếu phần dư nợ còn lại của tổ chức tín dụng tại doanh nghiệp nhà nước vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó thì xử lý như thế nào?
Hay ở một tình huống khác, tổng mức góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng tại tất cả các công ty trực thuộc tối đa không quá 25% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của tổ chức tín dụng. Vậy những phần góp vốn vào công ty liên doanh, công ty liên kết có bị khống chế bởi tỷ lệ này không?
Chỉ riêng một nội dung điều chỉnh liên quan đến giới hạn góp vốn, mua cổ phần của các tổ chức tín dụng cũng đã có một loạt câu hỏi được VNBA đặt ra. Vậy, khi Thông tư 13 đi vào đời sống, khi thực hiện có lẽ sẽ lại phải có thêm một loạt văn bản hướng dẫn hỗ trợ.
Và nhìn lại các vấn đề VNBA đưa ra sau khi tập hợp ý kiến của 14 ngân hàng và công ty tài chính, câu hỏi chung là: Tại sao khi Thông tư đã ban hành và chỉ còn chưa đầy hai tháng nữa có hiệu lực mà vẫn còn nhiều điểm được cho là bất hợp lý, từ ý kiến của chính các đối tượng bị điều chỉnh?
Được biết, trong quá trình xây dựng dự thảo và hoàn thiện để ban hành, Ngân hàng Nhà nước cũng có tổ chức tìm hiểu, nghiên cứu các chuẩn mực quốc tế và có lấy ý kiến các ngân hàng thương mại…
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
Báo cáo hoạt động những tháng đầu năm nay của không ít ngân hàng cho thấy, tỷ lệ nợ xấu được khống chế ở mức tương đối thấp so với cùng kỳ. Một trong những nguyên nhân được các nhà băng lý giải là do chất lượng tín dụng được kiểm soát chặt chẽ nên tỷ lệ nợ xấu từ đó giảm dần.
Mặc dù các chuyên gia dự báo rằng tăng trưởng tín dụng bằng ngoai tệ từ nay đến cuối năm sẽ rất khó khăn nhưng cơ hội để tăng cho vay ngoại tệ của những ngân hàng mạnh về tài trợ xuất nhập khẩu vẫn còn.
Báo cáo của Diễn đàn ổn định tài chính về tăng cường khả năng phục hồi của thị trường và các tổ chức năm 2008 đưa ra nhận định, diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế gần đây cho thấy tầm quan trọng của các cơ chế bảo vệ người gửi tiền.
Tại cuộc tọa đàm về giải pháp tăng cường sử dụng vật tư trong nước trong công tác đấu thầu do Bộ Công Thương tổ chức ngày 5-8, các doanh nghiệp cho rằng, chính sách liên quan đến việc đấu thầu được áp dụng từ nhiều năm nay cần có sự sửa đổi vì nó đang bó buộc sự phát triển của doanh nghiệp.
Theo chỉ đạo của Chính phủ, nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến cuối năm là giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát giá cả, ổn định tỷ giá, giảm dần lãi suất nhằm thúc đẩy nền kinh tế tiếp tục phát triển.
Thực tế, nhiều khoản vay ODA lớn vẫn có thể biến thành những khoản vay kém hiệu quả, mất đi tính “ưu đãi” của chúng, chất thêm gánh nặng nợ nần cho Việt Nam. Một trong những nguyên nhân lãi vay phát sinh do nhiều dự án chậm tiến độ hay việc các doanh nghiệp, nhà thầu từ nước tài trợ vốn ODA làm ăn tắc trách hoặc kiếm lợi theo những cách không phù hợp với luật pháp Việt Nam.
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Để phát triển Phú Quốc trở thành một trung tâm dịch vụ du lịch lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á, cần thiết phải có những chính sách ưu đãi vượt trội”.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
“Khủng khiếp”, đó là chữ được TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam, dùng để nói về độ lớn mức vay nợ của các doanh nghiệp nhà nước, có liên quan mật thiết đến nợ công.
Đó là ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo 'Bảo hiểm hưu trí tự nguyện: Cơ hội cho doanh nghiệp và người lao động' do Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức ngày 30.7
Bài viết này nhằm mục đích xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam thông qua một phương pháp tiếp cận đơn giản. Mô hình ước lượng của chúng tôi sử dụng cơ sở lý thuyết về lạm phát cho một nền kinh tế nhỏ và mở. Bài viết cố gắng đưa một một vài gợi ý thận trọng cho chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn thực hiện chính sách kích cầu.
Dù lạm phát vẫn đang ở mức thấp hơn so với năm 2008, nhưng tỷ lệ này tăng mạnh từ giữa năm 2009 và đang trở thành nguy cơ lớn nhất đối với Ấn Độ và Việt Nam. Trung Quốc; Singapore đã tuyên bố nâng giá đồng tiền; Ngân hàng Trung ương Ôxtrâylia, Ấn Độ, Malaixia, Philíppin và Việt Nam cũng đã lần lượt tăng lãi suất trong mấy tháng qua. Nỗi lo lạm phát gia tăng đang đè nặng lên các nền kinh tế Châu Á.
Với số nợ và mức thâm hụt thương mại quá lớn với Trung Quốc như hiện nay, Mỹ đã gia tăng áp lực bằng mọi cách buộc Trung quốc phải "thả lỏng" đồng nhân dân tệ. Ngày 15-4 sắp tới, Bộ Tài chính Mỹ sẽ phải đưa ra tuyên bố xem Trung Quốc có phải là “nước thao túng tiền tệ” hay không. Khả năng xảy ra cuộc chiến tranh tiền tệ mới là rất lớn, theo giới phân tích đây có thể là một phần của âm mưu toàn cầu nhằm thiết lập trật tự thế giới mới.
72% doanh nghiệp tư nhân VN căng thẳng vì vốn. Theo Standard Chartered đồng Việt Nam sẽ giảm giá hơn nữa trong thời gian tới và lạm phát của VN năm nay sẽ ở mức 8,9%. Cơ chế lãi suất trần không còn phù hợp với thực tế. Ngân hàng Nhà nước cần phải thay đổi cơ chế cũ bằng một cơ chế mới, nếu không sẽ gây ra sự đè nén, kiềm chế sự phát triển kinh tế cũng như làm cho sự lưu thông tiền tệ có những tắc nghẽn và biến tướng khó kiểm soát.
Trong một thời gian ngắn, nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường ngọai tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục có 2 lần thay đổi tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ. Nhiều chuyên gia dự báo sẽ có thêm một đợt thứ ba trong năm nay, nhưng chưa biết khi nào - có thể vào quý III năm 2010? Liệu có xuất hiện tâm lý bất an khi sở hữu đồng nội tệ ?
Năm 2009 là năm không yên ả đối với thị trường tài chính Việt Nam khi các lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối, thị trường vốn đều biến động phức tạp và liệu thực tế này có tái hiện trong năm nay không lại là câu hỏi không dễ trả lời.
Quyết định của Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được cho vay lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn và thu thêm phí đối với các khoản vay ngắn hạn đang gây phản ứng trái nhiều từ các góc nhìn quan sát. Lãi suất thoả thuận đối với các khoản cho vay trung dài hạn của doanh nghiệp có nơi lên đến 18%/năm. Nhiều ý kiến cho rằng, mức này đã đến giới hạn chịu đựng của doanh nghiệp.
Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế nhưng thị trường tiền tệ vẫn chưa bền vững, rủi ro cao. Chính phủ nên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, không nên chạy theo giải pháp phá giá tiền đồng.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thị trường nhà đất năm 2010 sẽ có nhiều áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và thách thức trước sự đổ bộ nhiều hơn của nhà đầu tư nước ngoài. Giới đầu tư cần có góc nhìn thực tế hơn và họ sẽ phải đau đầu đối diện với thách thức chọn sản phẩm nào và bán cho ai.
Do nhu cầu nhà đất còn rất lớn nên việc đầu tư vào thị trường bất động sản hằng năm lợi nhuận có thể đạt từ 25%-30%, nếu gặp đột biến có thể lên đến 150%.