Từ trung tuần tháng 8 vừa qua, nhu cầu vay vốn trên thị trường mở (OMO) của các ngân hàng đột ngột giảm mạnh.
Đã đến tháng 9. Lộ trình giảm lãi suất “bước 2” đã gần. Nhưng để giảm tiếp, những thuận lợi trên thực tế thì ít, khó khăn thì nhiều.
Ngày 3/9, Chính phủ ban hành Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8/2010; trong đó tiếp tục có đánh giá: “Lãi suất cho vay của các ngân hàng vẫn còn ở mức khá cao”, và đây là một trong những khó khăn của tình hình kinh tế - xã hội từ nay đến cuối năm.
Trước đó, trong các nghị quyết tháng 5, 6 và 7, Chính phủ đã nhấn mạnh đến yêu cầu Ngân hàng Nhà nước xem xét để định hướng tiếp tục giảm lãi suất huy động và cho vay VND.
“Điểm hẹn” tháng 9
Nhớ lại, vào ngày 25/6/2010, tổng giám đốc một số ngân hàng thương mại tại Tp.HCM và Hà Nội đã có buổi làm việc với Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và đại diện Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA). Cùng ngày, kết quả cuộc họp đã được Ngân hàng Nhà nước công bố.
Nội dung chính của cuộc họp là sự thống nhất định hướng và lộ trình giảm lãi suất huy động và cho vay VND: “bước 1”, từ tháng 7, lãi suất huy động rút xuống khoảng 11%/năm, và “bước 2”, phấn đấu vào cuối tháng 9/2010 xuống mức khoảng 10,2% - 10,5%/năm.
Định hướng đó nhằm tạo điều kiện để hạ lãi suất cho vay, tiến dần tới chủ trương lãi suất huy động VND khoảng 10% và cho vay khoảng 12% mà Chính phủ dự tính trước đó.
Đúng hẹn, đến 5/7, hầu hết các ngân hàng thương mại đồng loạt rút lãi suất huy động VND. Nhiều thành viên “kéo thẳng” lãi suất huy động thống nhất 11,2%/năm ở hầu hết các kỳ hạn. Lãi suất cho vay các nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh cũng hạ dần về khoảng 12,5% - 15%/năm, tuy theo các nhóm đối tượng và chính sách ưu đãi.
Thế nhưng, đến tận tuần từ 6 - 12/8, một số thành viên như Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát triển Mê Kông, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hàng Hải vẫn áp dụng mức lãi suất cao hơn mức đồng thuận của các thành viên Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) với lãi suất 11,25% - 11,3%/năm. Và phải đến tuần kế tiếp mới rút về mức cao nhất 11,2%/năm (theo thông tin cập nhật hàng tuần của Ngân hàng Nhà nước).
Nay, đã bắt đầu tháng 9, thị trường chờ đợi khả năng các ngân hàng thực hiện tiếp “bước 2” như đã dự tính tại cuộc họp nói trên; lãi suất huy động VND phấn đấu giảm về 10,2% - 10,5%/năm, tạo điều kiện để có thể giảm tiếp lãi suất cho vay.
Gánh nặng 0,75%
Chuẩn bị cho cuộc họp nội bộ vào hôm sau, gần nửa đêm, lãnh đạo một ngân hàng thương mại tại Hà Nội liên hệ với phóng viên với câu hỏi: tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng hiện nay là bao nhiêu?
Không phải ngẫu nhiên con số đó được tìm hiểu. Thực tế, một con số công bố chính thức và cụ thể hiện không có nguồn. Nhưng nếu “lần” theo thông tin mà đại diện Ngân hàng Nhà nước đưa ra gần đây?
Tại cuộc họp báo về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5/2010, ông Nguyễn Ngọc Bảo, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước), có đưa ra thông tin: tính đến cuối tháng 5/2010, tổng dư nợ cho vay tín dụng bất động sản đạt 192.000 tỷ đồng; tỷ trọng tín dụng cho vay bất động sản chiếm 10% trong tổng dư nợ tín dụng. Căn cứ vào những thông tin này, con số tổng dư nợ có thể ước tính một cách tương đối, vào khoảng hơn 1,92 triệu tỷ đồng.
Trở lại cuộc gọi của lãnh đạo ngân hàng nói trên, sự quan tâm của ông là phía sau con số đó là gì khi thực hiện chính sách mới; hay theo cách ông nói: “Gánh nặng 0,75%”.
Theo quy định tại Điều 9 của Quyết định 493 ngày 22/4/2005, “Các tổ chức tín dụng phải trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị của các khoản nợ. Trong thời hạn tối đa năm năm kể từ khi quyết định này có hiệu lực, tổ chức tín dụng phải trích lập đầy đủ số tiền dự phòng chung”. Nay, đã đến hạn 5 năm.
0,75% đó đồng nghĩa với việc các ngân hàng phải trích dự phòng chung gần 15.000 tỷ đồng (theo con số ước tính tổng dư nợ nói trên), thay vì có thể cho vay hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề chi phí của các nhà băng.
Liên quan đến khoản trích lập này, VNBA cũng đã có kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. Như đã đề cập ở một bài viết gần đây trên VnEconomy, VNBA cho rằng, trong điều kiện hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện nay, tỷ lệ trích lập dự phòng chung 0,75% trên là quá cao. Vì hiện nay, chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại rất thấp, khoảng 2%, thậm chí có ngân hàng thương mại mức chênh lệch này còn 1,5% - 1,8%.
“Việc các ngân hàng thương mại còn phải trích lập dự phòng chung theo quy định là 0,75% trên dư nợ cho vay từ nhóm 1 đến nhóm 4 sẽ rất khó cho các ngân hàng đảm bảo hiệu quả kinh doanh và thực hiện chủ trương của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về việc giảm lãi suất cho vay”, VNBA lập luận.
Theo đó, Hiệp hội đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho giảm tỷ lệ này từ 0,75% xuống còn 0,5%. Đề nghị này hiện còn để ngỏ.
Và cũng không mới, nếu Thông tư số 13 của Ngân hàng Nhà nước vẫn giữ nguyên quy định và lộ trình thực hiện (từ 1/10/2010), việc hạ lãi suất của các ngân hàng sẽ có thêm trở ngại.
Trong bản tin mới đây, một công ty chứng khoán nhận định: “Thông tư 13 có hiệu lực từ ngày 1/10/2010 đưa ra quy định rất chặt chẽ về tỷ lệ cho vay/vốn huy động của các tổ chức tín dụng. Theo đó, ngân hàng thương mại chỉ được dùng 80% vốn huy động để cho vay ra bên ngoài. Tuy nhiên tiền gửi không kì hạn của các tổ chức lại không được tính vào phần để cho vay, trong khi ước tính loại tiền gửi này chiếm từ 15-20% tổng vốn huy động.
Với quy định này, ngân hàng hoặc là phải hạn chế cho vay hoặc tăng cường huy động từ dân cư và doanh nghiệp. Hạn chế cho vay là không khả thi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận ngân hàng, trong khi ngân hàng có thể đẩy mạnh vốn huy động bằng cách tăng lãi suất tiền gửi. Do vậy chúng tôi cho rằng Thông tư số 13 chính là một bước cản cho định hướng giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà nước”.
Đã “hẹn” mà khó đến?
Từ trung tuần tháng 8 vừa qua, nhu cầu vay vốn trên thị trường mở (OMO) của các ngân hàng đột ngột giảm mạnh. Có những nguyên do, trong đó tình hình thanh khoản và vốn khả dụng tốt là một yếu tố được tính đến. Điều này cũng được phản ánh trong một số phân tích chính thống đưa ra gần đây, như một tín hiệu góp phần ủng hộ cho hướng giảm tiếp lãi suất.
Nhưng, đã “hẹn” mà khó đến. Trước mắt sức ép thực hiện những quy định mới có ảnh hưởng đến nguồn vốn và lợi nhuận các ngân hàng nói trên đang đè nặng. Kết quả rà soát và kiểm tra lại một số nội dung của Thông tư 13 hiện chưa công bố để có thể điều chỉnh hay không, đề nghị của VNBA về giảm tỷ lệ 0,75% đó cũng chưa có câu trả lời được công bố, trong khi lạm phát đang có xu hướng tăng trở lại trước khi vào “mùa cao điểm” cuối năm…
Để hạ lãi suất huy động về 10,2% - 10,5%/năm như dự tính tại cuộc họp ngày 25/6, hay về 10%/năm như định hướng mà Chính phủ đề ra, tạo điều kiện để giảm lãi suất cho vay, có lẽ phải chờ những động thái cụ thể từ Ngân hàng Nhà nước.
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
Dự báo đến năm 2030, dân số toàn thành phố Hà Nội có khoảng 9,4 triệu người. Trong đó, thành thị khoảng 6,4 triệu người, nông thôn khoảng 3 triệu người, tỷ lệ đô thị hoá là 68,8%.
Vừa góp phần bảo vệ môi trường, vừa tiết kiệm chi phí vận hành cho doanh nghiệp bằng những hành động đơn giản như dùng giấy in hai mặt hoặc giấy tái chế, sắp xếp chỗ ngồi trong phòng hợp lý để tiết kiệm điện…, đó là những lợi ích cơ bản mà mô hình văn phòng xanh đem lại.
Hai năm qua, khoảng 4.000 cơ quan tài chính của các chính quyền địa phương trên cả nước Trung Quốc đã vay hơn 7.700 tỉ NDT (hơn 1.134 tỉ đô la Mỹ). Ứớc tính đến năm 2011, các khoản nợ địa phương có thể lên đến 10.000 tỉ NDT (gần 1.473 tỉ đô la Mỹ), trong khi một số cơ quan phương Tây cho rằng nợ của chính quyền địa phương Trung Quốc hiện đã lên đến 12.000 tỉ NDT (hơn 1.767 tỉ đô la Mỹ).
Mặc dù cuộc khủng hoảng nợ ở châu Âu lên đến đỉnh điểm vào đầu năm nay, song các ngân hàng khu vực vẫn tiếp tục bơm tiền vào Hy Lạp và các nước khác vốn đang nợ "ngập đầu, ngập cổ".
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Để phát triển Phú Quốc trở thành một trung tâm dịch vụ du lịch lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á, cần thiết phải có những chính sách ưu đãi vượt trội”.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
“Khủng khiếp”, đó là chữ được TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam, dùng để nói về độ lớn mức vay nợ của các doanh nghiệp nhà nước, có liên quan mật thiết đến nợ công.
Đó là ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo 'Bảo hiểm hưu trí tự nguyện: Cơ hội cho doanh nghiệp và người lao động' do Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức ngày 30.7
Bài viết này nhằm mục đích xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam thông qua một phương pháp tiếp cận đơn giản. Mô hình ước lượng của chúng tôi sử dụng cơ sở lý thuyết về lạm phát cho một nền kinh tế nhỏ và mở. Bài viết cố gắng đưa một một vài gợi ý thận trọng cho chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn thực hiện chính sách kích cầu.
Dù lạm phát vẫn đang ở mức thấp hơn so với năm 2008, nhưng tỷ lệ này tăng mạnh từ giữa năm 2009 và đang trở thành nguy cơ lớn nhất đối với Ấn Độ và Việt Nam. Trung Quốc; Singapore đã tuyên bố nâng giá đồng tiền; Ngân hàng Trung ương Ôxtrâylia, Ấn Độ, Malaixia, Philíppin và Việt Nam cũng đã lần lượt tăng lãi suất trong mấy tháng qua. Nỗi lo lạm phát gia tăng đang đè nặng lên các nền kinh tế Châu Á.
Với số nợ và mức thâm hụt thương mại quá lớn với Trung Quốc như hiện nay, Mỹ đã gia tăng áp lực bằng mọi cách buộc Trung quốc phải "thả lỏng" đồng nhân dân tệ. Ngày 15-4 sắp tới, Bộ Tài chính Mỹ sẽ phải đưa ra tuyên bố xem Trung Quốc có phải là “nước thao túng tiền tệ” hay không. Khả năng xảy ra cuộc chiến tranh tiền tệ mới là rất lớn, theo giới phân tích đây có thể là một phần của âm mưu toàn cầu nhằm thiết lập trật tự thế giới mới.
72% doanh nghiệp tư nhân VN căng thẳng vì vốn. Theo Standard Chartered đồng Việt Nam sẽ giảm giá hơn nữa trong thời gian tới và lạm phát của VN năm nay sẽ ở mức 8,9%. Cơ chế lãi suất trần không còn phù hợp với thực tế. Ngân hàng Nhà nước cần phải thay đổi cơ chế cũ bằng một cơ chế mới, nếu không sẽ gây ra sự đè nén, kiềm chế sự phát triển kinh tế cũng như làm cho sự lưu thông tiền tệ có những tắc nghẽn và biến tướng khó kiểm soát.
Trong một thời gian ngắn, nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường ngọai tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục có 2 lần thay đổi tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ. Nhiều chuyên gia dự báo sẽ có thêm một đợt thứ ba trong năm nay, nhưng chưa biết khi nào - có thể vào quý III năm 2010? Liệu có xuất hiện tâm lý bất an khi sở hữu đồng nội tệ ?
Năm 2009 là năm không yên ả đối với thị trường tài chính Việt Nam khi các lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối, thị trường vốn đều biến động phức tạp và liệu thực tế này có tái hiện trong năm nay không lại là câu hỏi không dễ trả lời.
Quyết định của Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được cho vay lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn và thu thêm phí đối với các khoản vay ngắn hạn đang gây phản ứng trái nhiều từ các góc nhìn quan sát. Lãi suất thoả thuận đối với các khoản cho vay trung dài hạn của doanh nghiệp có nơi lên đến 18%/năm. Nhiều ý kiến cho rằng, mức này đã đến giới hạn chịu đựng của doanh nghiệp.
Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế nhưng thị trường tiền tệ vẫn chưa bền vững, rủi ro cao. Chính phủ nên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, không nên chạy theo giải pháp phá giá tiền đồng.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thị trường nhà đất năm 2010 sẽ có nhiều áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và thách thức trước sự đổ bộ nhiều hơn của nhà đầu tư nước ngoài. Giới đầu tư cần có góc nhìn thực tế hơn và họ sẽ phải đau đầu đối diện với thách thức chọn sản phẩm nào và bán cho ai.
Do nhu cầu nhà đất còn rất lớn nên việc đầu tư vào thị trường bất động sản hằng năm lợi nhuận có thể đạt từ 25%-30%, nếu gặp đột biến có thể lên đến 150%.