Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Giảm lãi suất và tác động: Giới ngân hàng nói gì?

Từ hôm 11/6, loạt điều chỉnh về lãi suất và cơ chế mới của Ngân hàng Nhà nước có hiệu lực. Những tác động của nó sẽ như thế nào?

Trần lãi suất huy động VND giảm xuống 9%/năm, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ngân hàng được tự ấn định; trần lãi suất cho vay VND với 4 nhóm đối tượng xuống theo; các lãi suất điều hành tiếp tục giảm… Loạt điều chỉnh này sẽ tác động đến các dòng vốn, đến các quan hệ tín dụng, đến tỷ giá USD/VND và cả yếu tố niềm tin, kỳ vọng của thị trường.

VnEconomy giới thiệu góc nhìn của lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại về những tác động đó.



Quan trọng nhất là kiểm soát được kỳ vọng

Ông Lê Minh Hưng, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước


“Nếu quan tâm, có thể thấy, Ngân hàng Nhà nước đã đạt được một số kết quả trong điều hành, mà nhiều người trong và ngoài ngành nhìn nhận là hết sức tích cực.

Thứ nhất là tốc độ tăng lạm phát giảm dần, giảm chắc chắn, nhưng quan trọng nhất là Ngân hàng Nhà nước đã neo được cái kỳ vọng lạm phát. Kỳ vọng lạm phát đã được kiểm soát tốt với khoảng 7% - 8% trong năm nay. Đó mới là điều quan trọng cần cho điều hành chính sách.

Nhìn lại, nếu để ý thì thấy có những thời gian, khi người ta cảm thấy các khuôn khổ chính sách vĩ mô mà không chắc chắn thì kỳ vọng về lạm phát có thể bùng trở lại rất nhanh, tác động mạnh đến điều hành chính sách.

Thứ hai là thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Cuối quý 4/2011 và đặc biệt là trong tháng 12 rất khó khăn. Hiện nay thanh khoản hệ thống đã được củng cố và cải thiện rất tích cực.

Thứ ba là tỷ giá. Thị trường ngoại hối và kỳ vọng tỷ giá cũng được neo giữ ở mức rất ổn định. Thống đốc nói năm nay chỉ biến động trong khoảng 2 - 3% nếu như không có các cú sốc từ bên ngoài. Ngân hàng Nhà nước tin tưởng biên độ đó hoàn toàn có thể đạt được.

Việc điều hành có tính đồng bộ, dài hạn và có tính dự đoán được đã đưa đến những kết quả như vậy.

Nhưng hiện nay có một số quan điểm cho rằng lãi suất sẽ giảm nữa, thậm chí giảm mạnh, làm cho thị trường nó không ổn định. Nhưng Ngân hàng Nhà nước định hướng từ nay đến cuối năm sẽ ổn định, ngoại trừ có yếu tố nào đó đột biến. Như vậy thì các doanh nghiệp cũng chủ động để dự báo được động thái chính sách; các ngân hàng cũng chủ động được phương án kinh doanh, cân đối được chi phí của mình, có các phương án trung và dài hạn tốt hơn.

Còn một vấn mà nhiều người quan tâm là tỷ giá USD/VND. Tác động của hạ lãi suất đối với tỷ giá như thế nào? Tâm lý mọi người là bình thường thôi, vì các bài toán đều phải tính, tính về lợi ích kinh tế. Nếu tính về lợi ích kinh tế thì VND vẫn là có lợi nhất.

Quan trọng nhất trên thị trường ngoại hối hiện nay, ngoài tỷ giá mua bán, là thanh khoản. Hiện nay thanh khoản rất tốt. Cho nên mấy hôm vừa rồi tỷ giá có lên một chút, nhưng khi đến ngưỡng kỳ vọng thì thanh khoản ra rất nhiều, lập tức tỷ giá giảm trở lại.

Với điều hành lãi suất sẽ ổn định của Ngân hàng Nhà nước, cộng với kỳ vọng tỷ giá tăng 2 - 3% thì gửi VND vẫn có lợi hơn.

Và hiện nay các nguồn cung ngoại tệ rất ổn định. Quý 1/2012, cán cân thanh toán thặng dư 5 tỷ USD; và lần đầu tiên sau nhiều năm thặng dư cả cán cân vốn và cán cân vãng lãi, làm điểm rất mới. Trước đây là thường xuyên thâm hụt. Dự báo của Ngân hàng Nhà nước là trong quý 2 cán cân thanh toán sẽ tiếp tục thặng dư.

Ở tâm lý thị trường và tâm lý người dân, số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy tiền gửi ngoại tệ của dân cư đã giảm và dịch chuyển sang VND. Trên thị trường thể hiện một điều rất rõ nét từ cuối 2011 đến nay là Ngân hàng Nhà nước liên tục mua vào ngoại tệ để tăng dự trữ. Đấy là những điểm cho thấy người dân và thị trường đã có lòng tin vào điều hành chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, cũng như là với VND, được củng cố hơn rất nhiều.

Chính vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cho rằng việc điều chỉnh lãi suất như vậy sẽ không tác động nhiều đến tỷ giá và thị trường ngoại hối”.


Cân bằng được các lợi ích


Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Hội đồng thành viên Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank)

“Với lãi suất cũ, nếu là những doanh nghiệp kinh doanh tốt thì vốn vay đã được giảm theo lãi suất mới rồi. Nếu doanh nghiệp nào có vòng quay vốn 3 - 6 tháng, nhất là doanh nghiệp xuất khẩu thì phần lớn đã được.

Với ngân hàng, lãi suất cũ huy động lãi suất cao vẫn còn tồn tại. Như Agribank, tỷ lệ vốn huy động trên 12 tháng chiếm khoảng 15%, mà lãi suất trước đây là 14%/năm. Phải cân đối nguồn huy động và cho vay. Nhưng không vì thế mà không giảm lãi suất cho vay. Chúng tôi luôn phải tính toán hài hòa lợi ích giữa khách hàng và ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước không thể đưa ra một quyết định hành chính bắt buộc ngân hàng thương mại phải giảm các lãi suất, vì các quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng là theo hợp đồng, quan hệ dân sự và rủi ro hai bên cùng chịu.

Và thực tế hiện nay các ngân hàng còn cạnh tranh nhau để giảm lãi suất. Có thể tiếng nói từ doanh nghiệp trong câu chuyện lãi suất và tiếp cận thì nên là tiếng nói của nhiều doanh nghiệp hơn. Tạm chia doanh nghiệp theo ba nhóm: nhóm sắp phá sản, nhóm đang cầm chừng và nhóm tốt. Nhóm đầu tiên có thể là 20%, hay nhóm tốt có thể là 20%, vì vậy cần tìm hiểu một tiếng nói có tính đại diện chung.

Có ý kiến đề cập là điều kiện cho vay hiện nay khó quá. Tôi thấy các ngân hàng hiện không tăng thêm bất cứ điều kiện nào. Phải khẳng định như vậy. Thậm chí với khách hàng tốt chúng tôi còn cơ cấu lại nợ, như thế là một sự nới lỏng nhất định, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Chỉ có điều là chúng tôi phải kiểm soát, tăng cường yêu cầu minh bạch hóa tài chính của doanh nghiệp nhiều hơn. Qua đó để làm rõ dòng tiền của doanh nghiệp, thực chất thời gian tới họ làm ăn thế nào.

Đối với doanh nghiệp tồn kho cao, làm ăn thua lỗ thì đúng là cho vay chặt chẽ hơn. Ngăn ngừa rủi ro. Việc thẩm định ở đây còn phải tiên lượng được vài năm tới chứ không chỉ hiện tại. Vài năm tới chính sách của Chính phủ thế nào, điều kiện thị trường trong và ngoài nước thế nào? Hiện nay mới chỉ là một vấn đề. Vài năm tới, không dễ gì Nhà nước nới lỏng chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ như những năm trước.

Chính sách lãi suất hiện nay tôi cho rằng sẽ đạt được hai mục tiêu. Thứ nhất, sẽ góp phần tăng tổng cầu nền kinh tế; tín dụng sắp tới sẽ tăng lên, chi tiêu ngân sách sẽ tăng lên, người dân đầu tư sẽ sử dụng đồng tiền của mình vào sản xuất. Thứ hai là điều chỉnh hài hòa lợi ích giữa người gửi và người vay. Và quan trọng là nó phù hợp với kỳ vọng của thị trường, cả người gửi và người vay đều kỳ vọng sẽ giảm tiếp. Cân bằng được các lợi ích đó, cả với ngân hàng và Nhà nước nữa, cũng như Thống đốc nói giữ ổn định từ nay đến cuối năm, thì sẽ kích thích các giao dịch kinh tế sẽ nhộn nhịp hơn trong thời gian tới. Người ta không còn kỳ vọng nào hơn nữa.

Vì vậy, tôi cho rằng chúng ta không nên quan ngại về sự dịch chuyển dòng vốn sang các kênh đầu tư khác. Có thể có nhưng không lớn, vì hiện đã có một sự cân bằng tương đối”.

Điều hành không còn giật cục và bất ngờ

Ông Phạm Quang Tùng, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)

“Với thông tin tín dụng không tăng, theo tôi thì ngoài khó khăn của doanh nghiệp và của nền kinh tế, còn có vấn đề ở chính sách quản lý.

Như mọi năm, chúng ta chỉ tính dư nợ cho vay thôi. Còn năm nay, tổng giới hạn tăng tín dụng Ngân hàng Nhà nước cho phép là bao gồm tất cả các khoản tín dụng theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng, trong đó bao gồm một khối lượng rất lớn là trái phiếu doanh nghiệp. Nếu Ngân hàng Nhà nước tách phần trái phiếu doanh nghiệp ra, tôi nghĩ chưa chắc tổng tín dụng đã không tăng. Vì vậy có sự thay đổi về số liệu thống kê giữa 2011 với 2012.

Ngoài ra, có ý kiến cho rằng, vì cuối năm ngoái ngân hàng thương mại cũng nhận định được chiều hướng quản lý sang 2012 Ngân hàng Nhà nước sẽ có giới hạn nên họ có điều chỉnh kỹ thuật tại thời điểm 31/12/2011, nhưng tôi nghĩ điều đó không nhiều.

Ở đây tôi cho chủ yếu là do tiêu chí thống kê, khi Ngân hàng Nhà nước tách phần đó ra thì sẽ khác. Vì trước đây, một số tổ chức tín dụng mạnh dạn đầu tư ở các khoản bảo lãnh trái phiếu doanh nghiệp. Năm nay, tình hình doanh nghiệp hiện nay thì nhiều ngân hàng không sẵn sàng tư vấn và đầu tư trái phiếu doanh nghiệp nữa.

Về điều chỉnh lãi suất, tại BIDV, thông thường người ta vẫn nói là lãi suất đầu vào giảm thì mới có điều kiện giảm lãi suất đầu ra, còn chúng tôi lãi suất đầu ra luôn đi trước. Về kinh doanh, ở đây là, ngân hàng trước hết phải có khách hàng và giữ được khách hàng. Thực tế thời gian qua, với những khách hàng tốt thì chúng tôi thực hiện điều chỉnh lãi suất ngay trên hợp đồng; lãi suất cũ được đưa về lãi suất mới.

Hiện có doanh nghiệp kêu lãi suất vẫn quá cao, tôi nghĩ có lẽ chủ yếu là những doanh nghiệp kinh doanh chưa tốt, hoặc chưa thực sự minh bạch, khả năng phục hồi không cao.

Về chính sách, lâu rồi, nhiều năm rồi mới thấy sự điều hành có tính chất định hướng rất rõ, lộ trình rõ, chứ nó không giật cục, bất ngờ nhiều như trước đây. Lộ trình và định hướng Ngân hàng Nhà nước đã thông tin rất là rõ rồi. Có chăng là có thể nhìn nhận tình hình đã tốt hơn nên rút ngắn lộ trình thôi”.


Tránh được cái chết trong tương lai


Ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank)

“Về tỷ giá USD/VND, sau khi lãi suất VND giảm nhanh và mạnh thì sẽ sao? Tôi nhận thấy là, lãi suất về 9%/năm, tỷ giá tăng 2% - 3% hay 3% - 4% đi nữa thì cộng vào nữa cũng không bằng 9%/năm. Cho nên với người thân tôi vẫn thuyết phục là gửi VND vào ngân hàng.

Nhưng người gửi có yên tâm không? Trong bối cảnh hiện nay, kinh doanh sau khi trừ chi phí rồi để được 9%/năm là cực kỳ khó khăn. Cho nên lúc này gửi VND vào ngân hàng vẫn là một kênh đầu tư an toàn.

Còn về trần lãi suất cho vay, nó giúp cả doanh nghiệp lần ngân hàng. Về doanh nghiệp, nó nghiêm cấm ngân hàng nào vì khó khăn thanh khoản, phải huy động lãi suất cao và cho vay cao. Còn với ngân hàng, hạn chế cho vay cao thì tránh phải chết trong tương lai, vì càng cho vay cao thì càng khó thu hồi nợ. Đếm cua trong lỗ, cho vay cao cứ tưởng nhân với nguồn tín dụng thì thu lời cao, nhưng sau đó thu được về như thế nào?

Trong giai đoạn này, các doanh nghiệp bắt đầu đầu tư kinh doanh là được rồi. Với lãi suất cho vay ngắn hạn 11%, 12%, 13%/năm là tương đối tốt. Còn ngân hàng chúng tôi, muốn tồn tại thì cho vay trước thấp, chính giai đoạn này là lúc chúng tôi lôi kéo khách hàng tốt nhất. Những khó khăn tạm thời thì ngân hàng phải giúp doanh nghiệp, như thế họ mới về với mình. Có lẽ ngân hàng nào cũng suy nghĩ điều đó.

Hôm qua (9/6), Thống đốc có nói với tôi là lãi suất 9%/năm sẽ ổn định từ nay đến cuối năm. Cho vay với “margin” 2% - 3%/năm là tương đối tốt rồi. Cho nên ai đó mong lãi suất xuống nữa để đầu tư vào ngoại tệ thì sai lầm”.

Không vì thừa vốn mà đẩy tín dụng ồ ạt

Ông Nguyễn Hưng, Tổng giám đốc Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank)

“Việc Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất là đúng với xu thế thị trường. Nó có lợi cho ngân hàng thương mại.

Chúng ta biết là thời gian qua ngân hàng thương mại phát triển tín dụng khá là khó, một vài tháng gần đây dư nợ mới nhúc nhắc tăng được một chút, mới lên mặt đất một chút. Có các kênh đầu tư, liên ngân hàng và trái phiếu Chính phủ, kênh thứ ba là cho vay. Cho vay ra thì không tăng được; nếu gửi liên ngân hàng thì lỗ nặng, vì lãi suất chỉ 6% - 7%, thậm chí 5%/năm; lãi suất trái phiếu Chính phủ cũng xuống thấp. Cho nên việc giảm lãi suất này giúp ngân hàng thương mại giảm được chi phí vốn. Vẫn phải huy động vào mà không cho vay ra được thì rõ ràng nó ảnh hưởng nhiều đến tỷ suất sinh lời của ngân hàng.

Cái nữa là, mức 9%/năm có yếu tố là các ngân hàng đang thừa khá là nhiều tiền. Hạ lãi suất vừa giúp ngân hàng như vậy vừa giúp giảm chi phí vay cho doanh nghiệp. Đối với các khoản vay cũ rõ ràng trước nay các ngân hàng vẫn quy định một biên độ điều chỉnh lãi suất, thông thường là 3 tháng một lần. Ví dụ ngay bây giờ chúng ta giảm xuống 9%/năm, các khách hàng đến kỳ điều chỉnh lúc này lập tức được giảm ngay 2%/năm. Từ 14%/năm trước đây xuống 9%/năm là đã giảm 5%/năm rồi, nếu khách hàng nào vay từ năm ngoái thì đến nay đã được giảm lãi suất vay 5%/năm rồi. Rõ ràng nhiều khách hàng đã có được mức giảm đáng kể.

Thời gian qua, tiền gửi vào ngân hàng tập trung ở kỳ hạn ngắn, thậm chí tập trung 1 tháng. Nó tái tục liên tục như vậy. Nay, cho phép ngân hàng và khách hàng thỏa thuận lãi suất kỳ hạn gửi từ 12 tháng trở lên thì tạo điều kiện để ngân hàng cải thiện cơ cấu tài sản nợ. Ngân hàng thương cho vay ít nhất 3, 6, 12 tháng, thậm chí là 5 năm. Rõ ràng đang phải lấy các khoản ngắn hạn như vậy tài trợ cho các khoản dài hạn. Nay, giả sử vẫn giữ nguyên 11%/năm ở các kỳ hạn từ 12 tháng thì nó sẽ giúp cải thiện cơ cấu vốn, bảng cân đối của ngân hàng lành mạnh hơn rất nhiều. 11%/năm như vậy, margin 2% - 3%/năm, lãi suất cho vay khoảng 14%/năm là rất hợp lý.

Hai ngày cuối tuần vừa rồi, khách hàng đổ dồn đến ngân hàng để đổi sổ. Trước đó họ gửi 1, 2, 3 tháng là cùng, giờ đổi thành 6 - 12 tháng hết. Họ sợ lãi suất sẽ hạ tiếp. Như tại VPBank, chỉ hai ngày vậy thôi khách hàng gửi vào hàng nghìn tỷ đồng. Rõ ràng lúc này gửi ngân hàng vẫn là kênh an toàn và hiệu quả với người gửi tiền.

Còn doanh nghiệp kêu, có thể chúng ta mới chỉ nghe từ các ông đầu cơ, những ông không thể cơ cấu lại được, hay trước đây họ không gắn với sản xuất. Chúng tôi cũng muốn hỗ trợ, nhưng phải đặt an toàn lên hàng đầu, chứ không thể vì thừa vốn mà đẩy tín dụng ra ồ ạt, không kiểm soát được thì hậu quả phải trả giá là 6 tháng hay một năm nữa. Thậm chí khi lãi suất huy động 14%/năm, chúng tôi đã phải cho vay 12%/năm, vì thà rằng cho vay những khách hàng tốt đó còn hơn gửi liên ngân hàng chỉ 6% - 7%/năm”.

Theo Minh Đức
Vneconomy
---------------------------------

Doanh nghiệp phản ánh về việc hạ lãi suất

Nhiều DN cho rằng, lãi suất không phải là yếu tố quyết định tới hoạt động kinh doanh của họ, mà Chính phủ cần có thêm các giải pháp đồng bộ nữa để giúp doanh nghiệp vượt khó.
Kể từ hôm nay (11/6), trần lãi suất huy động VND giảm xuống 9%/năm, trần lãi suất cho vay VND với 4 nhóm đối tượng xuống theo, các lãi suất điều hành tiếp tục giảm… Tuy cũng còn băn khoăn về điều kiện tiếp cận vốn vay theo lãi suất mới, nhưng việc giảm lãi suất nhanh là nguyện vọng chung, tín hiệu vui của nhiều doanh nghiệp.
 

 

Hạ lãi suất tiền gửi: Mũi tên trúng hai đích

Nhận định về việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều chỉnh giảm trần lãi suất huy động và cho vay kể từ ngày 11/6, ông Nguyễn Cao Cường, Phó Giám đốc Công ty TNHH Dệt May CMC cho rằng đây có thể được coi là một mũi tên trúng hai đích. Thứ nhất, các doanh nghiệp sẽ tiếp cận được vốn vay dễ dàng hơn; Thứ hai khi lãi suất huy động giảm, có thể người dân sẽ có thêm nhiều kênh đầu tư khác, ngoài việc chỉ gửi tiết kiệm, từ đó sẽ góp phần kích thích sản xuất, tiêu dùng.

Tuy nhiên, ông Cường cũng mong muốn các ngân hàng sẽ có cơ chế mở hơn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi các doanh nghiệp nhỏ làm ăn hiệu quả chính là các doanh nghiệp an toàn, sản xuất thực sự và quay vòng vốn nhanh.

Theo quan điểm của ông Lê Văn Hựu, Giám đốc Công ty TNHH Hựu Hưng, chuyên phân phối các sản phẩm đồ uống ở Hà Nội và kinh doanh vận tải, khi ngân hàng cho vay với lãi suất cao thì doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ đều bị ảnh hưởng. Lãi suất cao kéo theo nhiều hệ lụy như ngân hàng huy động đầu vào nhiều nhưng cũng không cho vay được. Doanh nghiệp không vay được vốn, hoặc phải vay với lãi suất quá cao sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh, thậm chí đình đốn, ngừng trệ sản xuất, dẫn đến nguy cơ lao động thất nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã không thể trụ vững trước tình hình kinh tế khó khăn. Vì vậy hạ lãi suất là điều cần thiết trong thời điểm hiện nay.

“Đây cũng sẽ là một tín hiệu có lợi cho cảnthị trường chứng khoán, khi lãi suất tiền gửi tiết kiệm hạ, người dân có thể sẽ tập trung hơn vào kênh đầu tư chứng khoán. Điều này sẽ có lợi cho doanh nghiệp”, ông Hựu cho hay.

Đồng quan điểm này, ông Trần Văn Lĩnh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản cho rằng,khi lãi suất tiền gửi thấp, thị trường chứng khoán mới trở về đúng bản chất là thị trường cấp vốn. Và khi thị trường chứng khoán trở về là thị trường cấp vốn nó sẽ phát triển ổn định, chắc chắn kéo theo sự phát triển của kinh tế.

Điều kiện tiếp cận vốn là một mối quan tâm

Còn đối với bà Phan Hoàng Anh, Giám đốc Công ty TNHH Kinh doanh bất động sản Hiền Anh, điều các doanh nghiệp quan tâm là tiếp cận được với nguồn vốn vay lãi suất thấp. Tuy nhiên thực tế hiện nay, không phải doanh nghiệp nào cũng tiếp cận được với nguồn vốn vay này.

Lý do là có ngân hàng đưa ra các điều kiện được vay khắt khe vì bản thân các ngân hàng cũng đang phải đối mặt với những khoản nợ xấu. Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất thì hàng hóa tồn kho nhiều, không tiêu thụ được sản phẩm nên dẫn đến sản xuất cầm chừng, không đủ điều kiện để vay vốn, mà thậm chí nếu được vay vốn họ cũng không dám vay vì sản xuất không bán được.

Do đó, theo bà Hoàng Anh, hạ lãi suất có thể sẽ là biện pháp để các doanh nghiệp dễ dàng hơn khitiếp cận nguồn vốn vay cũng như giảm gánh nặng nợ. Và khi doanh nghiệp có cơ hội thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, các ngân hàng cũng sẽ giảm bớt được nỗi lo “nợ xấu”.

Còn về phía người dân khi gửi tiết kiệm không còn là một kênh đầu tư hấp dẫn, thì họ có thể rút tiền ra đầu tư vào các kênh khác để có hiệu quả hơn, chẳng hạn như thị trường bất động sản, chứng khoán… Nhìn chung việc giảm lãi suất tiền gửi được kỳ vọng sẽ là tín hiệu tích cực cho nền kinh tế vào thời điểm này.

Điều có lợi nhất đối với doanh nghiệp lúc này, theo ông Vũ Đức Vận, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Đông Phương là khi lãi suất giảm, các doanh nghiệp vừa kinh doanh thương mại vừa sản xuất sẽ có vốn để đầu tư mua nguyên liệu, trang thiết bị… có những chiến lược dài hơi hơn trong phát triển và kinh doanh, thị trường cạnh tranh tốt hơn, doanh nghiệp có cơ hộiphát triển tiếp.

Tuy nhiên, ông Vận cũng chia sẻ: Đối với các doanh nghiệp yếu, kém, ngân hàng cần cân nhắc khi quyết định cho vay vốn. Nhưng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ có lợi nhuận tăng trưởng lớn thì ngân hàng nên xem xét, tạo điện kiện vay vốn. Doanh nghiệp ủng hộ việc hạ lãi suất nhưng nếu doanh nghiệp không tiếp cận được nguồn vốn vay như đã đưa ra thì không hẳn thuận lợi cho doanh nghiệp hay người dân. Do đó, cần có sự điều chỉnh để đảm bảo hài hòa lợi ích của người gửi tiền, người vay tiền và các tổ chức tín dụng.

Đối với ngành Dệt may, ông Bùi Đức Đảng, Giám đốc Công ty May Đại Đồng tỉnh Thái Bình cho biết, đầu ra của sản xuất trong năm 2012 đang gặp khó khăn, các khách hàng đều mong muốn được giảm giá trong khi đó chi phí sản xuất tăng. Sự đình trệ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đang ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của công nhân. Vì vậy, việc giảm lãi suất của Ngân hàng sẽ giúp các doanh nghiệp đỡ khó khăn hơn, có điều kiện để giảm chi phí sản xuất, đây là mộtđiều kiệnđể thu hút được thêmđơn hàng, đồng nghĩa với việc thu nhập của công nhân cũng ổn định hơn.

Mong những "liều thuốc" đúng bệnh

Dù thừa nhận chủ trương hạ lãi suất huy động và cho là một trong những động thái tích cực, nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp vượt qua khó khăn, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhưng rất nhiều doanh nghiệp khi được hỏi đều cho rằng, lãi suất không phải là yếu tố quyết định tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, mà Chính phủ cần có thêm các giải pháp đồng bộ nữa để giúp doanh nghiệp vượt khó.

Theo ông Nhâm Tiến Chung, Giám đốc Công ty sản xuất và Thương mại Việt Mỹ, “nên chăng, để tạo niềm tin cho doanh nghiệp, các cơ quan quản lý cần công khai các kênh mà doanh nghiệp có thể vay vốn, tiếp tục cải tiến quy trình thủ tục vay vốn. Và quan trọng hơn là phải công khai, minh bạch hoạt động của các ngân hàng. Dĩ nhiên, về phần mình, doanh nghiệp cũng phải tự cứu trước khi ngân hàng ứng cứu và phải chấp nhận sự đào thải của thị trường, bởi đây là quy luật tất yếu”.

Theo ý kiến của ông Nguyễn Tất Thành, Trợ lý Hội đồng Quản trị, Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ tổng hợp Đức Thành: Việc ngân hàng đọng vốn, doanh nghiệp “đói” vốn đã khiến cho sản xuất ngưng trệ, kinh tế đi xuống, tình trạng nợ xấu tăng cao, doanh nghiệp không được tiếp tục cho vay điều này đã “ăn mòn” vào vốn của doanh nghiệp. Để doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn giá rẻ thì cần xử lý thành hệ thống, có thêm hành lang pháp lý.

Theo quan điểm của ông Nguyễn Khắc Quý, Chánh Văn phòng Hiệp hội Thủ công mỹ nghệ Việt Nam chia sẻ, "hiện nay doanh nghiệp gặp khó khăn không chỉ do không vay được vốn để sản xuất mà phần nhiều là vì doanh nghiệp không bán được hàng hóa do thị trường co hẹp. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn gặp những khó khăn khác như không mua được nguyên liệu sản xuất. Do đó, các chính sách hỗ trợ rất cần sự đồng bộ và tất nhiên không thể giúp cho toàn bộ các doanh nghiệp được. Những chính sách phù hợp vào thời điểm này chính là động lực, là liều thuốc "tăng lực" đúng người đúng bệnh, giúpcho doanh nghiệp phục hồi, từng bước phát triển trong thời điểm hiện nay".

Theo Phòng Thông tin phản ánh của tổ chức, công dân

chinhphu.vn

---------------------------------

Bloomberg: Hiệu quả của cắt giảm lãi suất ở Việt Nam vẫn là ẩn số

 

Bloomberg vừa đưa tin về động thái cắt giảm lãi suất lần thứ 4 liên tiếp với nỗ lực thúc đẩy nền kinh tế được dự báo là sẽ tăng trưởng với tốc độ chậm nhất trong nhiều năm của Việt Nam.

Theo Bloomberg, động thái này cùng chung xu hướng với các nhà hoạch định chính sách của các nước trên thế giới, từ Brazil đến Trung Quốc trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm.

Các nhà hoạch định chính sách tiền tệ trên khắp thế giới đang đứng trước sức ép phải hành động để vực dậy nền kinh tế toàn cầu đang phải chịu đợt suy giảm sâu nhất kể từ khi khủng hoảng 2009 kết thúc. Theo lời phát biểu của Thống đốc Nguyễn Văn Bình  ngày 7/6, GDP quý I của Việt Nam chỉ tăng 4% và GDP cả năm được dự báo chỉ tăng 5,2% - mức thấp nhất kể từ năm 1999.

Theo  Edwin Gutierrez, chuyên gia quản lý danh mục đầu tư tại Quỹ Aberdeen Asset Management  có trụ sở đặt tại London, với tốc độ lạm phát dịu lại, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) không thể bị chê trách với những gì họ đang làm.  Edwin Gutierrez  hiện đang quản lý các khoản nợ của thị trường mới nổi trị giá 8 tỷ USD, trong đó bao gồm cả trái phiếu của Việt Nam. Theo Gutierrez, hiệu quả của đợt cắt giảm lãi suất này lớn đến đâu vẫn là ẩn số bởi các kinh tế toàn cầu đang diễn biến hết sức bất lợi.

Các công ty của Việt Nam hiện đang phải đối mặt với tình trạng căng thẳng tín dụng sau khi hồi cuối năm ngoái SBV nâng chi phí đi vay để chống chọi với tỷ lệ lạm phát ở mức cao nhất châu Á.

Theo lời phát biểu của giám đốc quốc gia Ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam bà Victoria Kwakwa trước khi quyết định cắt giảm lãi suất được đưa ra, việc tăng trưởng tín dụng âm khiến các nhà hoạch định chính sách phải lo ngại liệu có phải họ đã đi quá xa hay không.

Tuy nhiên, theo hãng tin AFP, các chuyên gia phân tích ngân hàng cũng bày tỏ sự lo ngại cắt giảm lãi suất sẽ gây ra những tác động tiêu cực. Cắt giảm lãi suất quá nhanh nhằm kích thích tăng trưởng sẽ tạo ra những vấn đề trong tương lai.  Lãi suất cho vay thấp hơn khiến nợ xấu gia tăng đồng thời có thể dẫn đến việc người dân ồ ạt rút tiền ra khỏi ngân hàng nếu lãi suất tiếp tục giảm.

Thu Hương

Theo TTVN/Bloomberg, AFP



 

  • Nhìn lại thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm và dự báo
  • Việt Nam: Nghịch lý ngân hàng sống nhờ “bầu sữa” ngân sách
  • Ngân hàng làm gì với thế hệ Y?
  • Thế hệ Y và cuộc cách mạng trong ngân hàng bán lẻ
  • Nguy cơ nợ công Việt Nam thực sự nằm ở đâu?
  • Ai là người cuối cùng gánh nợ xấu?
  • Lập công ty mua bán nợ: Cần thận trọng
  • Vì sao ngân hàng thừa tiền nhưng không cho vay?
  • “Chính phủ nên mua nợ để cứu doanh nghiệp và ngân hàng”
  • Xa vời “VN-Index” bất động sản
  • Vàng nổi sóng ngầm: Ai 'đạo diễn' thị trường?
  • TS. Đinh Thế Hiển: Cơ hội nào cho bất động sản và ngoại hối?
  • Liên minh cổ đông với ngân hàng ngoại: Ai lợi hơn ai?
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • TS. Phạm Thế Anh: Xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam
  • Lạm phát gia tăng: nỗi lo không chỉ riêng của Việt Nam
  • Chiến tranh tiền tệ Mỹ -Trung: Âm mưu thiết lập trật tự thế giới mới ?
  • Chính sách tiền tệ: thị trường tiền tệ liệu có rối loạn ?
  • Chính sách tiền tệ: Điều chỉnh tỷ giá hối đoái và những tác động
  • Dự báo xu hướng vận động thị trường tài chính 2010
  • Lãi suất cho vay: Rủi ro pháp lý và sức chịu đựng của doanh nghiệp
  • Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam "lách" luật kiếm siêu lợi nhuận?
  • PGS.TS Trần Hoàng Ngân: 'Việt Nam không nên phá giá tiền đồng'
  • Xu hướng thị trường nhà đất 2010: Nhận định từ các chuyên gia
  • Đồng USD sẽ tăng giá trở lại trong năm 2010
  • Đầu tư vào nhà đất vẫn là số một!