Hơn 90% doanh nghiệp địa ốc tại TP.HCM đang tê liệt, thua lỗ vì thiếu vốn. Trong khi đó, các ngân hàng khẳng định họ đang thừa tiền nhưng cũng không có ý định rót vốn cho các doanh nghiệp địa ốc thời điểm này.
Ông Từ Tiến Phát, phó giám đốc khối khách hàng cá nhân ngân hàng ACB, khẳng định: các tổ chức tín dụng dù đang thừa vốn nhưng vẫn chưa có ý định rót vốn cho các doanh nghiệp bất động sản (BĐS). Với các ngân hàng, lãi suất cho vay BĐS vẫn duy trì ở mức cao từ 17 - 19%/năm. Nguồn cung căn hộ, đất nền lại tiếp tục tăng cao, vượt xa mức cầu, trong đó rất nhiều nhà đầu tư cá nhân không trả được nợ ngân hàng nên phải bán tháo để trả nợ. Theo ông Phát, xu hướng này sẽ tiếp tục tăng cao do tình hình nợ xấu của các tổ chức tín dụng tăng nhanh.
Sẽ không rót vốn trực tiếp
Chưa hết, theo ACB, thời gian tới nguồn vốn cho các doanh nghiệp BĐS đầu tư dự án mới hoặc tiếp tục hoàn thành các dự án dở dang trực tiếp từ ngân hàng sẽ bị tắc. Do vậy, doanh nghiệp BĐS hãy tự cứu lấy mình bằng cách huy động vốn từ khách hàng. Về việc hỗ trợ vốn, ông Phát cho biết, ACB sẽ không rót vốn trực tiếp cho doanh nghiệp mà sẽ hỗ trợ thông qua các khách hàng, đặc biệt là lượng khách hàng thân thiết của ngân hàng. Hiện nay ACB có khoảng 3.000 khách hàng thân thiết. Vấn đề còn lại là doanh nghiệp đưa ra mức giá bán nào để có thể kéo những người mua nhà thực sự chấp nhận mua. Ông Phát đề xuất để hỗ trợ cho người tiêu dùng mua nhà, cần chính sách theo hướng người tiêu dùng sẽ ứng trước 30% giá trị căn nhà, 30% là từ vốn nhà nước, 40% là từ các ngân hàng thương mại cho vay với lãi suất thấp, trả chậm.
Tương tự ACB, ngân hàng BIDV cũng cho biết không trực tiếp rót vốn cho các doanh nghiệp BĐS, mà sẽ hỗ trợ vốn thông qua gói liên kết bốn nhà, gồm: ngân hàng - chủ đầu tư - nhà thầu - nhà sản xuất vật liệu xây dựng. Theo ông Đậu Trí Dũng, phó giám đốc ban phát triển sản phẩm và tài trợ thương mại ngân hàng BIDV, tiêu chí quan trọng của gói này là sản phẩm của các doanh nghiệp BĐS muốn vay vốn phải phù hợp với đầu ra của thị trường. Các doanh nghiệp phải có công trình được hoàn thành trong năm 2012 - 2014.
Nhiều doanh nghiệp cho biết họ khó có thể đáp ứng các tiêu chí như BIDV đưa ra. Theo ông Nguyễn Văn Đực, phó giám đốc công ty địa ốc Đất Lành: "Không chỉ chúng tôi mà nhiều công ty trên thị trường không tài nào vượt qua được những chuẩn cho vay quá khắc nghiệt của các ngân hàng. Chúng tôi buộc phải vay với lãi suất cao hoặc thậm chí có doanh nghiệp phải chơi với tín dụng đen để có tiền duy trì hoạt động".
Nợ xấu chặn đứng dòng tiền
Tại buổi hội thảo về chủ đề vực dậy nguồn lực BĐS tại TP.HCM gần đây, TS Lê Xuân Nghĩa, nguyên phó chủ tịch uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia cho biết, hiện nút thắt chung của nền kinh tế cũng như dòng vốn của BĐS nằm ở nợ xấu. Nợ xấu như chiếc xe lật chắn ngang đường làm tê liệt toàn bộ hệ thống giao thông. Vì nợ xấu mà ngân hàng chờ doanh nghiệp mang đồng vốn lưu động để trả vào ngân hàng, rồi sau đó ngân hàng không cho vay lại. Cũng vì nợ xấu mà ngân hàng dù có tiền nhưng không dám cho vay, dẫn đến cửa chết với doanh nghiệp.
Ông Nghĩa cho biết, Chính phủ đã giao cho ngân hàng Nhà nước đứng ra giải quyết nợ xấu. Theo ông nguyên tắc cơ bản là giải quyết xong nợ xấu thì ngân hàng thương mại mới mạnh dạn cho vay mới. Một thông tin đáng chú ý đã được đưa ra là ngân hàng Nhà nước sẽ thành lập công ty mua bán nợ xấu. Số nợ xấu dự kiến sẽ được xử lý khoảng 100.000 tỉ đồng. Tuy nhiên, việc này cần thời gian.
Ông Phan Khắc Long, chủ tịch HĐQT công ty Phan Vũ cũng cho rằng, vấn đề nợ xấu hiện nay cần được xử lý theo hướng xâu chuỗi. Bởi vì khi các dự án đầu tư công bị cắt nguồn vốn, các công ty liên quan sẽ bị ảnh hưởng theo. Do đó, khi Nhà nước bơm tiền cho các ngân hàng để giải cứu các doanh nghiệp thì cần sớm tính tới các dạng nợ xấu này để tránh từ 1 đồng nợ xấu sẽ dễ dẫn đến 3 hay 4 đồng nợ xấu của những công ty liên quan.
Tương tự, theo ông Nguyễn Lam Sơn, tổng giám đốc công ty VinaTrust, để thị trường phát triển thì phải làm sao cho tính thanh khoản của thị trường tăng lên. Do vậy, việc bơm vốn nên tập trung đến người mua cuối cùng thì thị trường mới có thể phát triển. Ở các nước, nhà nước ít hỗ trợ cho doanh nghiệp, bởi vì dễ gây ra lãng phí, phát triển chênh lệch. Bên cạnh đó, cũng cần xây dựng lại hệ thống thẩm định giá để định lại giá trị thực của BĐS.
Thứ trưởng bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam công bố tại hội thảo là từ nay tới cuối năm, 120.000 tỉ đồng vốn đầu tư công chưa dùng hết có thể được bơm ra. Liệu việc này có gỡ được bế tắc cho thị trường bất động sản hay đã đến lúc doanh nghiệp bất động sản phải tự thiết kế những sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường?
(Theo SGTT)
-------------------
Đặt vấn đề về thế cùng đường của nhóm lợi ích ngân hàng trong bối cảnh hiện nay - e rằng vẫn có vẻ khá khiên cưỡng, khi nhóm này vẫn tiêu biểu cho lực lượng trội nhất về tiềm lực vốn, tài sản, lợi nhuận và thế nắm dao đằng chuôi trong toàn bộ các doanh nghiệp Việt Nam.
Nhưng cũng khó nêu ra câu hỏi nào khác hơn khi bản thân nhóm ngân hàng lại đang sa chân vào một ma trận - hệ quả do chính họ gây ra cho đến giờ này.
Đã quá rõ là sau ba tháng liên tiếp với ba lần giảm trần lãi suất huy động, tình hình vẫn hầu như chưa có gì biến chuyển. Tiền vẫn nằm ứ trong ngân hàng, còn đại đa số doanh nghiệp vẫn chưa thể "tiếp cận được nguồn vốn vay giá rẻ". Những con số thống kê muộn màng vế tỷ lệ khoảng 30% doanh nghiệp đã được vay vốn với mức lãi suất ưu đãi 15% trong mấy tháng qua thực ra chỉ mang tính tượng trưng, trong khi lại không hề xuất hiện một thống kê nào cho thấy lượng vốn được giải ngân từ ngân hàng cho doanh nghiệp là bao nhiêu. Trong khi đó, một số ngân hàng đã xác nhận tỷ lệ giải ngân từ các gói cho vay ưu đãi của họ chỉ đạt khoảng 3-5% so với kế hoạch đề ra. Tức thực tế giải ngân là quá nhỏ bé so với chủ đích ban đầu.
Còn con số vốn nằm "chết" trong hệ thống ngân hàng cho tới nay là bao nhiêu? Cũng không có (và dường như điều này trở thành tất nhiên) một thống kê nào từ phía cơ quan chủ quản là Ngân hàng nhà nước. Song vào ngày cuối tháng 5/2012, từ một cuộc họp của cơ quan này với nhóm G14, một dự kiến được nêu ra là sẽ thành lập tổ chức chuyên mua bán nợ xấu giữa các ngân hàng với số vốn điều lệ lên đến 100.000 tỷ đồng.
Ảnh chỉ có tính chất minh họa. |
Con số 100.000 tỷ đồng này lại có một nét gì đó khá tương đồng với những đồn đoán trước đó về chuyện có đến hàng trăm ngàn tỷ đồng, nếu không muốn nói là hơn thế, tiền mặt đang bất động trong khu vực ngân hàng mà không thể đưa vào lưu thông được.
Cũng trong cuộc họp trên, con số về số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng tại Ngân hàng nhà nước đã vượt quá quy định 40.000 tỷ đồng hẳn phải minh chứng cho câu chuyện thừa vốn dài hạn mà không biết làm gì cả.
Điều được gọi là "gót chân Asin" của ngân hàng cũng chính thức lộ ra.
Không chỉ là núi tiền mặt khồng lồ bị giam châm trong hệ thống này, mà tình trạng nợ xấu đã phát triển đến mức cần phải có những biện pháp "quyết liệt" nhằm kiềm chế, trước khi mọi chuyện trở nên không thể kiểm soát.
Vào cuối năm 2011,Agribank đã bị đánh giá là một ngân hàng thương mại cổ phần có tỷ lệ nợ xấu thuộc loại nguy hiểm nhất - trên 6%. Nhưng chỉ sau quý 1/2012, khi bản sơ kết tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trở nên thê thảm, nợ xấu của các ngân hàng cũng "bỗng dưng" tăng vọt. Eximbank, Vietinbank, BIDV, Vietcombank... đều là những ngân hàng đã làm ngạc nhiên nhiều khách hàng và cổ đông khi tỷ lệ nợ xấu trở nên xấu đi một cách lạ lùng, tăng gấp 50-60% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thế nhưng tỷ lệ nợ xấu trên vẫn chưa có gì được coi là xác thực, nếu người ta tham chiếu cách tính toán của... Fitch Ratings. Vào giữa năm 2011, trong khi Ngân hàng nhà nước Việt Nam đưa ra tỷ lệ nợ xấu trong toàn bộ hệ thống ngân hàng chỉ hơn 3%, thì tổ chức xếp hạng tín dụng có tiếng trên trường quốc tế này đã bảo lưu tỷ lệ tương tự ở Việt Nam là 13%. Tức gấp 4 lần con số công bố!
Còn vào giờ này, với những gì mà các ngân hàng thương mại cổ phần đã bắt buộc phải công bố (và cả tự nguyện như một hành động kêu cứu), người ta lại có thêm cơ sở để suy diễn khả năng nợ xấu thực tế không phải chỉ là con số thống kê.
Thế cùng đường
Thế khó khăn của ngân hàng đã khá nhanh chóng biến thành thực tại nan giản. Nếu vào cuối năm 2011, họ có thể tung ra cơ chế cho vay doanh nghiệp với mức lãi suất 17-18% kèm theo những điều kiện cho vay không quá khắt khe mà vẫn có thể đạt được phần nào kết quả, thì sau quý 1 năm nay, tình hình đã biến chuyển tiêu cực đến khó hiểu. Thêm ít nhất 17.000 doanh nghiệp lâm vào cảnh phá sản và giải thể (theo con số thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư), cùng dự báo của chính cơ quan này về khoảng 50.000 doanh nghiệp biến mất trong năm 2012, đã làm cho tình thế không còn nằm trong vòng kiểm soát của nhóm lợi ích ngân hàng. Vốn cho vay, dù được tha thiết mời mọc đến thế nào chăng nữa, đã không còn trở nên hấp dẫn đặc biệt đối với những kẻ đói khát.
Minh chứng cho hiện tượng cung vốn quá thiên lệch so với cầu vốn như trên là cơ chế giảm trần lãi suất huy động theo kiểu nhỏ giọt. Tháng 3/2012 là thời điểm đầu tiên mà Ngân hàng nhà nước tiến hành giảm trần lãi suất huy động từ 14% về 13%, nhưng có vẻ miễn cuỡng hơn là một thái độ chủ động. Khi đó, các ngân hàng vẫn còn làm cao và ngoài Vietcombank, BIDV, vẫn chẳng thấy hiện diện những gói kích cầu ưu đãi nào khác. Nhưng những gì mà giới ngân hàng hình dung rằng doanh nghiệp - trong thảm cảnh khát vốn, sẽ "bập" ngay vào vốn vay ngân hàng khi lãi suất huy động giảm, đã không hề xảy ra. Một tháng sau đó, khi trần lãi suất huy động giảm tiếp về 12%, tỷ lệ vốn giải ngân khỏi ngân hàng cũng không tăng hơn được bao nhiêu.
Cực chẳng đã, vào trung tuần tháng 5/2012, Ngân hàng nhà nước đã phải tiến hành một cuộc "cách mạng" chưa có tiền lệ từ khi Chính phủ mới được thành lập vào tháng 8/2011: vừa hạ tiếp trần lãi suất huy động lần thứ ba liên tiếp về 11% và do đó đã phá vỡ "lộ trình giảm lãi suất huy động 1% mỗi quý" mà thống đốc Nguyễn Văn Bình đã thường tuyên bố, đồng thời còn tiến hành áp trần lãi suất cho vay ưu đãi ở mức 15%. Song toàn bộ giới doanh nghiệp vẫn thờ ơ. Đến lúc này, giới phân tích đành phải nêu ra một luận lý: không phải doanh nghiệp không muốn vay, mà là họ không còn khả năng vay.
Có vẻ như cuộc khủng hoảng niềm tin vẫn chưa có điểm dừng. Trong cách nhìn của phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa, nền kinh tế nhiều khả năng vẫn chưa thoát khỏi đáy, hay nói cách khác là chưa lập đáy. Vô số khó khăn về tín dụng và cơ chế vẫn chờ đợi ở phía trước. Hơn nữa, trong một nền kinh tế mà sức cầu đang hướng dần vào thế thiểu phát, hàng tồn kho chất cao và ngay cả tiểu thương cũng phải bỏ chợ, chẳng mấy doanh nghiệp đủ can đảm để hoạch định một tương lai trung hạn cho mình bằng cách đi vay vốn và ngay lập tức bị biến thành con nợ bất đắc dĩ.
Khủng hoảng niềm tin kinh tế và tiêu dùng cũng dẫn tới khủng hoảng xác tín về tín dụng. Chính sách bất cập và thiên hẳn về nhóm lợi ích ngân hàng của Ngân hàng nhà nước, như đã được bày tỏ suốt nhiều tháng trời qua, đã khiến cho các doanh nghiệp không thể tin rằng họ sẽ được sống trong một môi trường lãi suất cho vay ổn định, hơn nữa càng khó có thể vay được vốn với mức lãi suất 12-13%, khi chính một chuyên gia đầy kinh nghiệm trong ngành tài chính là ông Lê Xuân Nghĩa đã buộc phải nói thẳng ra là các ngân hàng đã chỉ "giả vờ" cứu doanh nghiệp. Ở một chiều kích khác, một số doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng phải trần tình là họ sẽ không bị "mắc lừa" ngân hàng thêm một lần nữa.
Đạo lý quan hệ kinh doanh giữa ngân hàng và doanh nghiệp cũng vì thế mà xấu đi. Có thể gọi đó là gì, sau cái chết của nhiều doanh nghiệp và triển vọng tiếp nối của nhiều doanh nghiệp khác? Thế đường cùng của ngân hàng - hẳn là thế, khi nhóm lợi ích này đang phải rước lấy một hậu quả không đáng có: bị cộng đồng doanh nghiệp và cả xã hội "tẩy chay".
Những ngày gần đây, thế cùng đường của ngân hàng càng hiển hiện hơn khi chính họ đã phải lên tiếng kêu cứu.
Vốn huy động vẫn vào đều đặn và lãi vẫn phải trả đều đặn cho khách hàng, nhưng vốn cho vay lại không thể triển khai được. Cứ đà này, chẳng mấy chốc ngân hàng sẽ từ hòa đến âm vốn. Và nếu không cẩn thận, thời điểm cuối năm 2012 này sẽ chứng kiến những ngân hàng đầu tiên báo lỗ - lỗ thực sự chứ không phải như động tác "chia sẻ" cảnh ngộ với các doanh nghiệp.
Theo VNN
------------------------------
Lượng tiền có nguồn gốc không trong sạch đổ vào các nền kinh tế mỗi năm khoảng 1.000 tỷ USD, tương đương 5% GDP toàn cầu, có khả năng làm sụp đổ hệ thống tài chính bất cứ lúc nào.
Số liệu này được ông Lê Như Dương, Trưởng phòng Quản lý rửa tiền Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đưa ra tại buổi tập huấn về phòng chống rửa tiền hôm 1/6, như là lời cảnh báo khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa thực sự coi trọng hoạt động này.
Các trước trên thế giới bắt đầu hợp tác phòng chống rửa tiền từ năm 1989, khi cho ra đời cơ quan chuyên trách có tên FATF ( Financial Action Task Force on money laundering, tức Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền). Các chuẩn mực về phòng chống rửa tiền đã được ngân hàng thế giới (WB) và FATF khuyến nghị nhằm hướng đến việc "tiêm vắc xin" phòng ngừa là chính chứ không đi tìm bệnh để diệt. Tại Việt Nam, Quốc hội cũng đang thảo luận vấn đề trên và sẽ cho ra đời luật rửa tiền trong tháng này.
Ông Dương cho rằng, hoạt động rửa tiền hiện nay được thực hiện qua nhiều cửa ngõ như mua bán chứng khoán, bất động sản. Thậm chí lợi dụng cả tổ chức từ thiện, tổ chức phi chính phủ. Ngoài ra, thời gian gần đây còn có dấu hiệu rửa tiền qua con đường khoa học công nghệ hay mua bán cổ phần hóa doanh nghiệp.
“Nhưng ngân hàng hiện vẫn là cửa ngõ chính của hoạt động rửa tiền”, ông Dương nói.
Để minh chứng cho nhận định này, ông cho biết thời gian qua, nhiều tổ chức, cá nhân quốc tế liên quan đến việc chuyển một khoản tiền phạm tội từ nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu thông qua ngân hàng thương mại. Dòng tiền bẩn vào thường không đọng lại lâu, mang rủi ro lớn đến cho ngân hàng.
Điện Vietcombank dẫn chứng trường hợp của một ngân hàng Anh, chỉ riêng năm 2011, đã bị cơ quan quản lý của một số nước (trong đó có cả Cục Dự trữ liên bang Mỹ) phạt tổng cộng gần 500 triệu USD vì có liên quan tới hoạt động rửa tiền.
“Điều đó cho thấy, nếu ngân hàng Việt không lo phòng chống tốt, khả năng sẽ bị sạt nghiệp nếu để dính vào hoạt động này”, ông nói.
Đầu năm nay, Vietcombank cũng phát hiện hàng chục giao dịch của cả tổ chức và cá nhân trong nước chuyển tiền hàng chục tỷ đồng lòng vòng. Sau khi tổng hợp thông tin, ngân hàng thấy đây đều là các tài khoản mới, mở ra chỉ phục vụ mục đích chuyển tiền. "Với những dấu hiệu bất thường phát hiện được, chúng tôi đã báo cáo lên trên và liệt vào danh sách đen", ông Dương nói.
Ông Nguyễn Văn Ngọc, Cục trưởng Cục phòng chống rửa tiền (Ngân hàng Nhà nước) thừa nhận, hiện nay ở Việt Nam việc phát hiện và xử lý hành vi rửa tiền chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng.
Về mặt pháp lý, theo ông Ngọc, hoạt động rửa tiền đang làm nguy hại rất lớn đối với nền kinh tế, nhưng đến nay, khung pháp lý cao nhất về lĩnh vực này tại Việt Nam mới chỉ được quy định tại Nghị định 74. Và mãi đến tháng 2/2012 thông tư hướng dẫn về tội rửa tiền mới có hiệu lực. Do đó, Cục chỉ xử lý được vài trường hợp liên quan đến tội rửa tiền.
Một số hiện tượng rửa tiền từng bị phát hiện như làm thẻ visa ở Việt Nam để rút tiền từ nước ngoài, hoặc làm hồ sơ xuất cảnh sang Campuchia, người ở Việt Nam cứ rót tiền vào tài khoản đó để cho người đang ở Campuchia rút ra mua vàng và nhập lậu về Việt Nam...
"Ngân hàng đang rất chặt chẽ trong vấn đề tiền ra nhưng hơi buông lỏng nguồn tiền vào", ông Ngọc cảnh báo.
Nhìn nhận về tư duy phòng chống rửa tiền của các ngân hàng Việt Nam hiện nay, ông Dương cho biết đã có dấu hiệu tốt hơn trước đây. Tuy nhiên, việc triển khai trong thực tế vẫn còn hạn chế và chưa thực sự hiệu quả. Nguyên nhân theo ông, tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn, lạm phát… nên các nhà băng mải lo kinh doanh kiếm tiền mà chưa quan tâm nhiều đến việc phòng chống rửa tiền. Bên cạnh đó, hệ thống giám sát của Việt Nam chưa thật sự mạnh. Một ngân hàng thương mại để đầu tư hệ thống chống rửa tiền cũng mất khoảng 1 triệu USD. Ngoài ra, động thái thưởng phạt về phòng chống rửa tiền chưa được khuyến khích, không có nhiều chế tài.
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com