Nông dân vất vả làm ra hạt gạo, nhưng theo dự báo, giá gạo có thể rớt xuống mức khoảng 300-350 USD/tấn trong năm 2009
Nhận lời mời của Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Giáo sư C.Peter Timmer, chuyên gia hàng đầu của Mỹ về thị trường lúa gạo, đã có buổi giao lưu trực tuyến với chủ đề:
“Thị trường lúa gạo Việt Nam và thế giới”. Giáo sư C.Peter Timmer, từng giảng dạy trên 40 năm tại các đại học Harvard, Stanford, Cornell, California và là chuyên gia cao cấp tại Trung tâm Hội nhập toàn cầu - cơ quan nghiên cứu và tư vấn chính sách nổi tiếng của Hoa Kỳ.
Á quân và những việc cần làm ngay
Giáo sư C.Peter Timmer cho rằng mặc dù hiện tại Việt Nam là nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới chỉ sau Thái Lan, nhưng hàng thứ hai này quá cách xa nhiều điểm: năng lực xuất khẩu chỉ 5 triệu tấn so 10 triệu tấn của Thái Lan, nhưng giá lại rẻ hơn Thái Lan. Gần đây, Việt Nam bắt đầu chiếm thị phần của Thái Lan tại Ấn Độ và Pakistan, một nước xuất khẩu gạo chất lượng thấp chủ yếu đi Trung Đông, châu Phi.
Theo GS C.Peter Timmer, để phát huy những lợi thế vừa nêu, Việt Nam cần phải đầu tư vào 3 lĩnh vực quan trọng. Thứ nhất, tăng sản lượng đối với các nông hộ nhỏ bằng cách đầu tư công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất của nông hộ để có đủ hàng hóa. Thứ hai là hiện đại hóa thị trường gạo Việt Nam bằng cách khuyến khích thâm nhập vào thị trường nội địa và quốc tế, đặc biệt thông qua sự đa dạng về chủng loại và chất lượng xay xát và tồn trữ cao (hệ thống siêu thị đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa này). Thứ ba, Chính phủ cần có những chính sách tốt hơn cho ngành sản xuất gạo trong nước. Những chính sách này cần phải cân bằng những lợi ích chính trị ngắn hạn của chính phủ và quyền lợi của nông dân và những người kinh doanh gạo để duy trì khả năng cung cấp cạnh tranh vào thị trường gạo thế giới.
Thực tế cho thấy từ năm 1989 đến 2008, Việt Nam đã xuất khẩu 65 triệu tấn gạo và khẳng định được tư thế của Việt Nam trên thị trường gạo ở loại phẩm cấp trung bình. Việt Nam cũng đã thử nghiệm việc xuất khẩu gạo có phẩm chất cao như gạo thơm nhưng chưa thành công. Thị trường gạo của Việt Nam tuy đa dạng nhưng hiện nay chính là châu Á, nhiều nước nhập khẩu gạo Việt Nam đã quen và ưa thích trong sử dụng.
An ninh lương thực sẽ như thế nào?
Với một quốc gia có hơn 80 triệu dân thì vấn đề an ninh lương thực sẽ như thế nào? Giả định khi thị trường tăng giá gạo, bài toán nào cho Việt Nam giữa vấn đề tích lũy và bán hàng trên thị trường? GS C.Peter Timmer cho rằng vấn đề an ninh lương thực có 3 giá trị. Ở mức độ toàn cầu, có đủ lương thực để đáp ứng cho dân số đang tăng hay không là một giá trị. Ở mức độ quốc gia, có sản xuất đủ lương thực cho người dân nước đó hay không. Và ở mức độ hộ gia đình, mỗi người kể cả người nghèo, có đủ lương thực cho nhu cầu dinh dưỡng hay không.
Ba giá trị trên kết nối với nhau trong một đất nước bằng những phương cách sau. Nhiều nông hộ nhỏ sản xuất gạo và phụ thuộc vào giá gạo để có thu nhập. Cùng lúc đó nhiều hộ gia đình nghèo phải mua gạo từ thị trường do đó họ phụ thuộc vào giá gạo thấp để có lương thực tiêu dùng. Còn quốc gia đó phụ thuộc vào thị trường thế giới để có ngoại tệ và cung cấp cho nông hộ, nhưng lại rất dễ bị tổn thương khi giá trên thị trường thế giới thay đổi.
“Giải pháp để Việt Nam bảo đảm được an ninh lương thực cho chính mình là nhận ra mối quan hệ qua lại giữa 3 giá trị đó và chuẩn bị cho những bất ổn không thể tránh khỏi trên thị trường gạo thế giới. Điều này đòi hỏi phải có cách bảo vệ cho những hộ nghèo bị thiếu hụt gạo (vì thiếu tiền mặt) khi giá gạo tăng vọt. Cùng lúc đó, những nông hộ thừa gạo cần phải tiếp cận với giá cao để tăng thu nhập (tăng tiết kiệm dự phòng cho những lúc giá gạo rớt xuống thấp). Vì thế tách rời thị trường thế giới là sai lầm”. GS C.Peter Timmer nhấn mạnh.
Ở đây, theo GS C.Peter Timmer, mô hình sản xuất khác biệt giữa các vùng ở Việt Nam sẽ làm phức tạp vấn đề an ninh lương thực. Có đủ gạo để ăn là vấn đề không khó khăn lắm đối với đồng bằng sông Cửu Long hay đồng bằng sông Hồng, nhưng những hộ gia đình ở vùng miền núi gặp rất nhiều khó khăn: nghèo, gạo không có sẵn. Do đó đòi hỏi cần xây dựng chính sách tốt hơn về tồn trữ và mua bán gạo cũng là cách gia tăng an ninh lương thực bền vững.
Tại sao gạo xuất khẩu của Thái Lan cao giá hơn gạo của Việt Nam?
“Có hai lý do cơ bản. Thứ nhất, chất lượng gạo Việt Nam thường thấp hơn gạo Thái Lan, bởi vì không đa dạng và chất lượng xay xát không tốt. Thứ hai, gạo Việt Nam bán giá thấp vì nguy cơ rủi ro trong giao dịch với nhà xuất khẩu Việt Nam. Trên thị trường thế giới, Việt Nam không được xem là nhà xuất khẩu đáng tin cậy nên họ (nhà xuất khẩu trong nước) phải giữ giá thấp để thu hút khách hàng. Thật khó để nói là Việt Nam và Thái Lan có thể hợp tác để “làm giá” trên thế giới vì mỗi quốc gia có những ưu tiên chính trị riêng và rất khác nhau”. GS C.Peter Timmer, phân tích.
Cũng theo GS C.Peter Timmer thì thị trường gạo Việt Nam đang đối mặt với những thách thức khó khăn về nguồn cung và cầu các loại gạo khác nhau. Chất lượng gạo có hai vấn đề: thứ nhất, loại gạo nào đang được trồng và khả năng sấy khô, xay xát và tồn trữ tới đâu?
“Việt Nam phải đối mặt với cả hai vấn đề bởi vì thị trường thế giới liên tục muốn những loại gạo có chất lượng xay xát cao và thị trường nội địa muốn có thêm nhiều loại gạo hương vị khác nhau. Chính phủ cần phải đáp ứng những thách thức này bằng cách phải giúp đỡ thị trường gạo hiệu quả hơn, đặc biệt khuyến khích hiện đại hóa hệ thống phân phối gạo. Có thực tế là thị trường gạo nội địa không ngừng liên kết với thị trường gạo thế giới và chính phủ cần khuyến khích sự phát triển này. Nếu chấp nhận thách thức này, sẽ mở ra cơ hội mới cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia mở rộng vào thị trường nội địa và xuất khẩu. Họ phải sử dụng công nghệ thông tin hiện đại và tài chính tương ứng để cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài”. GC.Peter Timmer đề xuất.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Trong bối cảnh kinh tế tiếp tục khó khăn, diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro, Hiệp hội Rau quả Việt Nam đã đưa ra dự báo, nhu cầu tiêu thụ rau quả thế giới tiếp tục tăng từ 3,5-5% và ngành rau quả đặt mục tiêu xuất khẩu đạt 1 tỷ USD trong năm 2013.
Gần đây, nhiều lô hàng chè của Việt Nam xuất khẩu sang các nước châu Âu EU đã bị trả về do phát hiện có chứa các chất Acetamiprid và Imidacloprid. Đây là 2 chất thuộc danh mục 02, theo lộ trình sẽ bị đưa ra khỏi danh mục vào tháng 2/2015.
Trong khi các nền kinh tế lớn ở châu Âu bao gồm cả Đức, Pháp và Italy đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng nợ công khu vực đồng tiền chung euro, kinh tế Thụy Sĩ trong năm qua vẫn phát triển với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm 2012 đạt khoảng 422 tỷ USD.
Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đã chính thức hoạt động. Nhưng nhiều người vẫn băn khoăn: xăng dầu sản xuất trong nước sao giá không thấp hơn giá nhập khẩu? Chất lượng xăng trong nước được kiểm soát ra sao?
Hiện nay, Nhà nước đang khuyến khích các DN nhập khẩu nguyên liệu, vật tư từ về sản xuất để xuất khẩu, mang tên hàng sản xuất tại Việt Nam bằng cách cho hưởng thuế XNK 0% sau khi đã thực xuất và thanh khoản tại Hải quan. Vậy mà ngày 23/9/2008 Bộ Tài chính ra công văn Số 11270/BTC- CST về việc thuế xuất khẩu hàng sản xuất từ nguyên liệu, vật tư nhập khẩu. Trong đó yêu cầu các DN phải chịu thuế xuất khẩu. Quy định này là rất bất cập.
Mạng tin Emfis (Đức) ngày 19/2 có bài đánh giá kinh tế Việt Nam năm 2009 đã khởi đầu khá thuận lợi khi kim ngạch ngoại thương thặng dư tới 400 triệu USD trong tháng Giêng.
Thời gian qua, Báo DĐDN đã có bài báo phản ánh về xử lý tình trạng gian lận xăng dầu tại các cây xăng và hình thức xử lý vẫn chưa đủ “nặng” khiến cho tình trạng gian lận này vẫn tiếp diễn. Ngay sau đó, DĐDN đã nhận được nhiều ý kiến phản ánh, đóng góp từ chính DN kinh doanh xăng dầu.
Rà soát những thông tin liên quan và cụ thể hóa các nhóm giải pháp để sớm triển khai gói hỗ trợ xuất khẩu năm 2009 là việc cấp bách nhằm hỗ trợ và thu hút các doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh xuất khẩu, thực hiện Quyết định 0795/QĐ-BCT ngày 16/2/2009 của Bộ Công Thương về kiềm chế nhập siêu và đẩy mạnh xuất khẩu.
Với các biện pháp của Chính phủ đã ban hành nhằm kiềm chế lạm phát, thực hiện tiết kiệm trong chi phí công, cắt giảm đầu tư các công trình không hiệu quả hoặc chưa cần thiết, xử lý linh hoạt việc tăng thuế nhập khẩu, nộp thuế trước khi thông quan, quản lý nhập khẩu bằng giấy phép tự động…
Sau nhiều lần trì hoãn, việc tăng giá điện đã được Thủ tướng phê duyệt và sẽ áp dụng từ 1/3/2009. Tăng giá điện là việc chẳng thể đừng nhưng sau đó, kiểm soát hệ luỵ tác động của giá điện như thế nào tới thị trường là vấn đề cần được quan tâm, xử lý.
Việc quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp còn ở mức độ đơn giản và sơ khai. Ngoài ra, công tác truyền thông để kêu gọi và khuyến khích người tiêu dùng chọn hàng sản xuất trong nước còn yếu kém.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....