- Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu diễn ra từ cuối năm 2007 đã có những tác động bất lợi đến kinh tế Việt Nam. Tìm kiếm giải pháp phát triển thị trường, tăng cường xuất khẩu trong thời kỳ suy thoái là nội dung được đặt ra trong Diễn đàn “Xuất khẩu và phát triển thị trường Việt Nam” được tổ chức tại Hà Nội ngày 16/7/2009. Diễn đàn do Bộ Công Thương chủ trì, báo Đối ngoại Vietnam Economic News và Công ty Việt Long Promotion phối hợp tổ chức, với sự tài trợ của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) và Công ty Xây dựng Lũng Lô.
Cuộc khủng hoảng này được định vị là loại khủng hoảng mang tầm thế kỷ, “trăm năm mới có một lần”. Tuy bắt nguồn từ các nước phát triển nhưng hiện nay, suy thoái đã lan qua các nước khác trong khu vực và toàn thế giới. Do phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu là chính, Việt Nam cũng trực tiếp chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng này, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu.
Từ cuối năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2009, suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng mạnh đến tình hình xuất nhập khẩu của nước ta. Sức mua trên thị trường trong nước và thế giới giảm mạnh kéo theo giá cả hàng hoá giảm theo. Do đó, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, thị trường bị thu hẹp, nhiều đơn đặt hàng bị cắt giảm, thiếu tính ổn định...
So với cùng kỳ năm 2008, năm nay, giá các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam như: cà phê, chè, dầu thô, cao su… đều giảm, kéo theo sự sụt giảm của kim ngạch xuất khẩu tại một số thị trường quen thuộc như: Hoa Kỳ giảm khoảng 7%, EU giảm khoảng 10%, ASEAN giảm khoảng 6%... Điều này dẫn đến kim ngạch xuất khẩu 6 tháng của cả nước chỉ đạt 39% kế hoạch, giảm 10,1% so với cùng kỳ năm 2008. Mục tiêu xuất khẩu đặt ra cho năm 2009 là tăng trưởng 3% so với năm 2008, tương đương đạt khoảng 64,57 tỷ USD.
Tại diễn đàn lần này, các chuyên gia kinh tế, nhà nghiên cứu, tư vấn kinh tế đã đưa ra những thông tin nhiều chiều nhằm tìm ra hướng phát triển cho xuất khẩu Việt Nam trong suy thoái. Dưới đây là trích đẫn những ý kiến đó:
PGS.TS Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam: “Thay đổi mô hình tăng trưởng và nâng cao chất lượng lao động”
Điểm then chốt nhất ở Việt Nam lúc này là thay đổi mô hình tăng trưởng do mô hình tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên và lao động rẻ chứ chưa dựa vào công nghệ. Bên cạnh đó, mô hình này chưa dựa vào khu vực dân doanh và tư nhân nhiều mà lại dựa vào Nhà nước. Nếu kéo dài, trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, Việt Nam sẽ dễ bị thua cuộc. Do vậy cần thay đổi mô hình tăng trưởng dựa vào doanh nghiệp, đồng thời dịch chuyển cơ cấu xuất khẩu. Bên cạnh đó, vấn đề chất lượng xuất khẩu với giá trị gia tăng thấp như hiện nay cũng cần được quan tâm.
Có một thực tế là hiện nay, lao động phổ thông Việt Nam không được đánh giá cao cả về tay nghề và kỷ luật. Cho nên để tăng chất lượng sản phẩm và tăng tính cạnh tranh, vấn đề nâng cao tay nghề, ý thức cho lao động Việt Nam cũng hết sức quan trọng.
Bên cạnh đó, việc xoay chuyển và đa dạng đồng tiền trong xuất nhập khẩu sẽ tránh được tình trạng rủi ro khi đồng tiền biến động giá.
TS. Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM): “Ổn định thị trường tài chính và làm sống lại tín dụng”
Để “tồn tại, trưởng thành và phát triển trong một thế giới đang biến đổi”, ta cần phải phối hợp với các nước trong khu vực và trên thế giới để ổn định kinh tế vĩ mô. Tức là dùng tiền ngân sách hỗ trợ lãi suất cho ngân hàng để làm sống lại tín dụng. Bên cạnh đó, cũng cần kích cầu, kích thích đầu tư, tăng chi tiêu để hỗ trợ nền kinh tế. Thực tế hiện nay, quá trình trung chuyển hàng hoá, vốn, con người, thông tin… đang diễn ra rất ồ ạt. Cho nên, một vấn đề quan trọng là phải chú ý đến chính sách để tránh gây sốc cho doanh nghiệp.
Với chính sách tiền tệ và lãi suất, cách thức điều chỉnh nên đủ đối với thực trạng và tiềm lực kinh tế của Việt Nam bởi nếu thắt chặt quá sẽ khiến kinh tế chưa lên đã lại sụp, hoặc nếu nới lỏng quá sẽ lại khiến lạm phát gia tăng. Tuy nhiên trong tương lai, chính sách tiền tệ có xu hướng thắt lại dần dần. Đồng thời, mức trần lãi suất cũng phải bỏ.
TS. Trịnh Minh Anh - Phó chánh văn phòng UBQG về hợp tác kinh tế quốc tế: “Phải đi bằng hai chân - phát triển thị trường nội địa làm bàn đạp cho xuất khẩu”
Để đứng vững trong suy thoái, ngoài việc xuất khẩu, doanh nghiệp cần chú ý đến thị trường trong nước, đặc biệt là 70% dân số có thu nhập thấp ở các vùng nông thôn. Ngoài việc sản xuất những mặt hàng cao cấp để phục vụ cho công tác xuất khẩu, cần chú ý sản xuất những mặt hàng có giá thành thấp hơn để đáp ứng thị trường tiêu thụ trong nước.
Bên cạnh đó, để phát triển bền vững tại thị trường nước ngoài nói chung và giảm gánh nặng cho doanh nghiệp trong suy thoái nói riêng, Nhà nước cần phải cải cách những chính sách, giảm thuế, cung cấp những thông tin chính xác, nâng cao hiệu quả hoạt động của các hiệp hội ngành hàng. Đối với doanh nghiệp, để kinh doanh hiệu quả và tự bảo vệ quyền lợi của mình thì cần nắm vững quy định, nâng cao chất lượng hàng hoá, tự trang bị cho mình những kiến thức về luật pháp. Quan trọng nhất, doanh nghiệp cần đoàn kết với nhau, gắn chặt với các hiệp hội ngành nghề và tận dụng sự hỗ trợ của Nhà nước.
TS. Phan Thị Hồng Hải - Giám đốc Sở giao dịch III VietinBank: “Khủng hoảng kinh tế không chỉ đem lại khó khăn mà còn mang đến cơ hội cho các ngân hàng”
Tình hình suy thoái kinh tế đã và đang khiến cho các phương thức thanh toán ít được đảm bảo của ngân hàng như chuyển tiền, tài khoản mở… dần giảm đi và được thay bằng các phương thức thanh toán có đảm bảo như tín dụng hay bảo lãnh. Điều này thúc đẩy các ngân hàng phát triển sản phẩm, chia sẻ rủi ro với nhau. Để cung cấp các phương thức thanh toán có sự đảm bảo của ngân hàng, các ngân hàng phải rất am hiểu khách hàng của mình và đây chính là cơ hội cho các ngân hàng trong nước trong quá trình cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.
Để kinh doanh phát triển trong suy thoái, việc tìm kiếm các bạn hàng, đối tác mới tại các thị trường mới như châu Phi, Trung Đông và Nam Mỹ, Đông Âu và Nam Á là việc cần triển khai tại các doanh nghiệp trong nước.
Ông Jason - Phòng Thương mại Mỹ: “Cơ chế một cửa - kinh nghiệm từ Mỹ”
Để tham gia hội nhập tốt và đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp, cơ chế một cửa tạo thuận lợi cho thương mại thông qua việc trao đổi nhanh chóng hơn các dữ liệu giữa các nước.
Khi áp dụng cho Việt Nam, cơ chế một cửa giúp đem lại nhiều lợi ích cho kinh tế Việt Nam: Thứ nhất là giúp hiện thực hoá những lợi ích được kỳ vọng của tự do hoá thương mại và tiếp cận thị trường; Thứ hai là giúp chuẩn hoá và hài hoà hoá các dữ liệu và quy trình theo tiêu chuẩn quốc tế và thoả thuận quốc tế; Thứ ba là cung cấp những cơ hội công bằng cho các công ty vừa và nhỏ và những ngành công nghiệp; Thứ tư là cải thiện các dịch vụ của chính phủ tốt hơn đối với công chúng - quản lý tốt hơn và hoạt động hành chính tốt hơn; Thứ năm là tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế một cách bền vững.
Trong hoạt động kinh doanh, cơ chế một cửa là giao diện duy nhất cho nhiều hệ thống khác nhau. Bên cạnh đó, cơ chế này giúp trao đổi thông tin thương mại đơn giản hoá, giúp quy trình làm giấy tờ thương mại nhanh chóng hơn. Do đó giúp giảm bớt những sai sót, cải thiện hiệu năng, chi phí kinh doanh thấp hơn và cải thiện khả năng cạnh tranh toàn cầu.
Ông Ken Arakawa - Cố vấn đầu tư cao cấp Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản Jetro: “Tìm hiểu kỹ bạn hàng”
Đối với việc xuất khẩu, tìm hiểu kỹ bạn hàng của mình là một trong những bí quyết đảm bảo công việc kinh doanh xuất khẩu thành công. Để đảm bảo giữ quan hệ kinh doanh lâu dài và bền chặt, Việt Nam đã rất quan tâm đến thị hiếu và nhu cầu của thị trường Nhật Bản như coi trọng chữ tín và chất lượng sản phẩm, ý thức sinh thái và bảo vệ môi trường rất cao… Đây chính là chìa khoá thành công cho quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam - Nhật Bản.
Không chỉ với đối tác Nhật Bản, với mọi đối tác khác, khi xuất khẩu, việc tìm hiểu chính xác nhu cầu và thị hiếu của bạn hàng là một nguyên tắc tất yếu để dẫn đến thành công.
Ông James Lockett - Cố vấn pháp lý Dự án Star, Baker & McKenzie, LLP Hà Nội: “Xác định và ứng phó với các khiếu kiện chống bán phá giá ở nước ngoài”
Chống bán phá giá (CBPG) là việc các nhà sản xuất nước ngoài điều tra về việc áp dụng giá bán (bán sản phẩm với giá thấp bất hợp lý) gây thiệt hại nặng nề cho ngành sản xuất trong nước của các quốc gia khiếu kiện đó.
Việt Nam phải chú ý đến những thị trường khá giống với mình như Trung Quốc. Bởi nếu nước này bị kiện về một vụ việc gì đó, hãy cẩn thận vì Việt Nam rất có thể cũng bị kiện với một vụ việc giống như thế.
Để tránh việc bị khiếu kiện, điều quan trọng với các doanh nghiệp là phải tìm hiểu kỹ về các vụ việc phá giá trong ngành của mình như qua trang web của VCCI; Danh mục của EU về các vụ việc được cập nhật hàng tuần; Trang web của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, USITC, Ấn Độ…; Tìm hiểu các thông tin trong các ấn phẩm thương mại và các nguồn trong ngành; Tìm hiểu các dữ liệu thương mại. Hãy cẩn trọng nếu hàng nhập khẩu vào thị trường xuất khẩu của bạn đang tăng đáng kể…
Khi đã vướng phải các vụ kiện này, phải nhanh chóng tính toán các chi phí, mời những luật sư có kinh nghiệm với các vụ việc này và xem xét cách tiến hành công việc. Bên cạnh đó, hãy duy trì quan hệ tốt với các nhà điều tra và coi việc khiếu kiện CBPG như một cuộc kiểm toán để chứng minh cho công ty mình trong tương lai.
Đối mặt với suy thoái kinh tế, Thứ trưởng Nguyễn Thành Biên khẳng định: “Chính phủ đã quyết định tăng hỗ trợ về xúc tiến thương mại lên gấp đôi so với năm 2008 (năm 2008 là khoảng 80 tỷ USD), giúp doanh nghiệp tìm kiếm thị trường xuất khẩu, tăng số lượng hợp đồng. Bên cạnh đó, vai trò của các cơ quan tham mưu trong xúc tiến thương mại cũng được nâng cao. Phạm vi các đối tượng được hưởng hỗ trợ xúc tiến thương mại đang dần được mở rộng”. Đến thời điểm này, hiệu quả của các gói kích cầu kinh tế cũng đang dần phát huy tác dụng.
Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính cho dù có ảnh hưởng đến Việt Nam nhưng các chuyên gia kinh tế vẫn khẳng định: “Đó không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội”. Giữ vững phát triển trong suy thoái chính là sự khẳng định hùng hồn rằng Việt Nam hoàn toàn có khả năng tham gia cuộc chơi cạnh tranh với các quốc gia khác trên thế giới.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Trong bối cảnh kinh tế tiếp tục khó khăn, diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro, Hiệp hội Rau quả Việt Nam đã đưa ra dự báo, nhu cầu tiêu thụ rau quả thế giới tiếp tục tăng từ 3,5-5% và ngành rau quả đặt mục tiêu xuất khẩu đạt 1 tỷ USD trong năm 2013.
Gần đây, nhiều lô hàng chè của Việt Nam xuất khẩu sang các nước châu Âu EU đã bị trả về do phát hiện có chứa các chất Acetamiprid và Imidacloprid. Đây là 2 chất thuộc danh mục 02, theo lộ trình sẽ bị đưa ra khỏi danh mục vào tháng 2/2015.
Trong khi các nền kinh tế lớn ở châu Âu bao gồm cả Đức, Pháp và Italy đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng nợ công khu vực đồng tiền chung euro, kinh tế Thụy Sĩ trong năm qua vẫn phát triển với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm 2012 đạt khoảng 422 tỷ USD.
Bộ Thương mại Thái Lan vừa phát đi thông báo nước này sẽ bắt đầu mở kho lúa gạo trong tuần này, dự kiến số lượng xuất bán khoảng 600.000 tấn. Bộ trưởng Thương mại, bà Porntiva Nakasai cho biết, Chính phủ chủ trương sẽ xuất khẩu theo từng lô hàng với số lượng nhỏ, chứ không xuất khẩu vài trăm nghìn tấn như trước nhằm giữ không để giá gạo trong nước tăng thêm nữa. Ngoài ra, Chính phủ nước này cũng đã thương lượng các hợp đồng giữa chính phủ và chính phủ với các nước như Malaysia, Indonesia và Iran. Dự kiến, số lượng gạo bán theo phương thức này sẽ lên đến 1 triệu tấn nữa.
Theo phản ánh của các doanh nghiệp, trong khi phân bón đang ứ thừa, Bộ Công Thương lại yêu cầu muốn tái xuất phải có quota do bộ này cấp là cản doanh nghiệp. Trong khi đó, lãnh đạo Bộ Công Thương khẳng định làm đúng quy định.
Theo Tổ điều hành thị trường trong nước, cân đối cung cầu các mặt hàng trọng yếu được bảo đảm với mức giá hợp lý. Cụ thể, sản xuất lương thực khá thuận lợi, sản lượng lúa ước đạt 38,6 - 38,8 triệu tấn (tương đương năm 2008), trong đó tiêu dùng nội địa khoảng 28 triệu tấn, xuất khẩu là 10,6 - 10,8 triệu tấn (tương đương hơn sáu triệu tấn gạo).
Phân bón giá rẻ, nhất là phân urê đang được nhập khẩu ồ ạt về Việt Nam sau khi Trung Quốc chính thức giảm thuế xuất khẩu phân bón theo đường tiểu ngạch xuống 0% kể từ tháng 7/2009.
Trung Quốc, vốn đối mặt với với sự sụt giảm xuất khẩu tồi tệ nhất trong hơn hai thập kỷ qua, đang thúc đẩy người tiêu dùng mua sắm nhiều hơn.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....