Vương quốc Anh là một trong những quốc gia tiêu thụ nhóm hàng rau quả chế biến lớn nhất trong Liên minh châu Âu (EU). Nhóm hàng này bao gồm những sản phẩm rau quả đông lạnh, sấy khô, đóng hộp, nước hoa quả và mứt.
Thị trường rau quả chế biến hiện đang phát triển rất tốt, đặc biệt là đối với mặt hàng rau quả sấy khô (hạt ăn liền) và nước hoa quả. Hoạt động nhập khẩu rau quả chế biến ở Anh diễn ra sôi động hơn cả tiêu dùng và sản xuất. Mặc dù có một thị trường tiêu thụ nội địa rất lớn nhưng Anh còn là quốc gia tái xuất khẩu nhóm hàng này.
Các nước đang phát triển hiện chiếm hơn 1/3 tổng giá trị nhập khẩu và đang là những nước cung cấp hạt điều, rau quả sấy khô và rau quả đóng hộp quan trọng của Anh.
Thị trường tiêu dùng:
Với thị hiếu ưa dùng những sản phẩm có lợi cho sức khoẻ, Anh có thị trường rau quả chế biến lớn nhất EU, chiếm 20% tổng giá trị của toàn EU, và đứng thứ 3 EU về sản lượng tiêu thụ với 16%, chỉ sau Đức (21%) và Italia (17%). Năm 2006, tiêu thụ rau quả chế biến của Anh ở mức 4,7 triệu tấn, đạt giá trị 6 tỉ euro.
Trung bình hàng năm, một người dân Anh tiêu thụ 78 kg rau quả chế biến với giá trị 99 euro, trong khi mức trung bình toàn EU là 59 kg và 60 euro. Tiêu dùng nhóm mặt hàng này ở Anh tăng mạnh kể từ năm 2001 với mức tăng trung bình hàng năm là 2,38%. Chi tiêu dùng cho thực phẩm và đồ uống tăng 2,6% mỗi năm. Thị trường rau quả chế biến của Anh là một thị trường ổn định cho các nước đang phát triển thâm nhập, đặc biệt là đối với Việt Nam bởi nước ta có nguồn rau quả phong phú được dành cho xuất khẩu.
Rau quả đóng hộp là nhóm hàng được tiêu thụ mạnh nhất ở Anh và toàn EU, chiếm 27% tổng giá trị tiêu thụ toàn thị trường. Từ năm 2001 đến nay, tiêu dùng nhóm hàng này ở Anh tăng 25% về giá trị và 44% về sản lượng.
Đối với nước quả, Anh là thị trường tiêu thụ lớn thứ 2 sau Đức với giá trị tiêu thụ chiếm 16% trong EU và có tốc độ tăng trưởng từ năm 2001 đến nay là 10% về giá trị và 21% về sản lượng. Mặc dù chiếm 17% tổgn sản lượng tiêu thụ toàn EU, nhưng nhóm hàng rau đông lạnh hiện đang có xu hướng giảm mạnh. Từ năm 2001 đến nay, tiêu thụ rau đông lạnh ở Anh đã giảm 30% về giá trị và 35% về sản lượng.
Trong khi tiêu thụ quả đóng hộp chỉ tăng nhẹ thì quả sấy khô lại có tốc độ tăng trưởng tiêu thụ đáng ngạc nhiên với mức tăng 40% về giá trị và 30% về sản lượng. Anh hiện đang là quốc gia tiêu thụ quả sấy khô lớn thứ 2 của EU chỉ sau Italia với thị phần 18%. Quả đông lạnh chỉ chiếm 2% thị phần tiêu thụ rau quả chế biến của Anh với mức tăng trưởng 12% về giá trị và 23% về sản lượng. Trong khi đó các loại hạt ăn liền như hạt điều, đậu phộng…chiếm một thị phần tương đối lớn, đứng thứ 4 trong EU khi nhu cầu tiêu thụ của người dân và trong công nghiệp tăng lên 60% kể từ năm 2002.
Sản xuất: Nếu không tính các sản phẩm hạt ăn liền thì Anh là nước sản xuất rau quả chế biến lớn thứ hai của EU chỉ sau Italia. Trong năm 2006, Anh chế biến được 3,2 triệu tấn rau quả trị giá 4,1 tỉ euro. Tốc độ sản xuất trung bình về rau quả chế biến của Anh hàng năm tăng 4% về giá trị và 31% về sản lượng. Anh là nước có ngành công nghiệp rau quả đóng hộp lớn thứ hai trong EU. Trong năm 2006, Anh chiếm 21% tổng giá trị sản xuất của EU. Sản xuất nước quả, rau quả đông lạnh, mứt lại có xu hướng giảm trong giai đoạn từ 2002-2006. Cũng trong giai đoạn này, quả khô có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất với 104% về giá trị và 143% về sản lượng. Tuy nhiên, nhóm hàng này mới chỉ chiếm 3% giá trị sản xuất rau quả của Anh.
Giá trị nhập khẩu: Anh là nước nhập khẩu rau quả chế biến lớn thứ 3 trong EU, chỉ sau Pháp và Đức. Năm 2006, Anh nhập khẩu 3,2 triệu tấn với giá trị 2,9 tỉ euro. Trong giai đoạn 2002-2006, sản lượng nhập khẩu tăng 10% và giá trị tăng 29%. So với sản lượng tiêu thụ, sản lượng nhập khẩu có tốc độ tăng mạnh hơn.
Hiện nay, Anh phụ thuộc lớn vào nguồn cung cấp rau quả chế biến từ các nước khác trong khu vực. Giá trị nhập khẩu từ các nước trong EU tăng 31% trong giai đoạn 2002-2006. Italia, Hà Lan, Đức, Bỉ và Pháp là những quốc gia cung cấp rau quả chế biến chính của thị trường Anh. Các nước đang phát triển hiện chiếm 25% thị phần nhập khẩu của Anh. Từ năm 2002-2006, tổng giá trị nhập khẩu tăng 47%, sản lượng tăng 48%. Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang là nước cung cấp lớn nhất trong số các nước đang phát triển cho thị trường Anh, đặc biệt là về các sản phẩm hạt ăn liền và rau quả sấy khô.
Hiện nay nhóm hàng nước quả đang chiếm thị phần và có tốc độ nhập khẩu lớn nhất trong ngành hàng rau quả chế biến của Anh. Từ năm 2002-2006, giá trị nhập khẩu nhóm hàng này vào Anh tăng 55% về giá trị và 110% về sản lượng. Trong năm 2006, sản lượng nhập khẩu nước quả của Anh chiếm 14% tổng thị phần nhập khẩu của toàn EU. Hà Lan và Đức là hai quốc gia cung cấp đến 2/3 thị phần nước quả của EU. Hai nước này chủ yếu nhập khẩu từ các nước đang phát triển và tái xuất khẩu lại đến các nước khác trong khu vực EU. Các sản phẩm nước quả được ưa dùng tại thị trường Anh là nước cam, nước táo và nước quả hỗn hợp.
Các nước đang phát triển hiện chiếm khoảng 10% thị phần nhập khẩu nước quả của Anh, Brazil và Trung Quốc là hai nhà cung cấp nước quả chính cho quốc gia này. Trong giai đoạn từ năm 2002-2006, nước quả nhập khẩu từ các nước đang phát triển tăng mạnh, giá trị nhập khẩu tăng 172% và sản lượng tăng 184%.
Rau đóng hộp là nhóm hàng nhập khẩu lớn thứ ba, chiếm 15% tổng giá trị nhập khẩu của EU trong năm 2006. Anh hiện là quốc gia nhập khẩu rau đóng hộp lớn thứ hai của EU. Trong giai đoạn từ 2002-2006, giá trị nhập khẩu của nhóm hàng này tăng 22% và sản lượng tăng 16%. Rau đóng hộp được nhập khẩu chủ yếu từ các nước trong khu vực (chiếm 65% tổng thị phần rau đóng hộp nhập khẩu). Cà chua đóng hộp chiếm 43% tổng giá trị rau quả đóng hộp nhập khẩu của Anh và chủ yếu được nhập khẩu từ Italia. Italia, Đức và Ấn Độ là những quốc gia cung cấp rau đóng hộp chính, Pháp và Thái Lan là hai thị trường cung cấp ngô ngọt cho Anh.
Nhóm sản phẩm hạt ăn liền có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong ngành hàng rau quả chế biến nhập khẩu của Anh. Trong giai đoạn từ 2002-2006, giá trị nhập khẩu hạt ăn liền tăng 66% và sản lượng tăng 59% với các sản phẩm chính như hạt điều, lạc, hạnh nhân. Ấn Độ và Việt Nam là những nước cung cấp hạt điều lớn nhất cho Anh, trong khi đó, Hà Lan, Trung Quốc, Brazil lại là những nước cung cấp lạc chủ yếu và Hoa Kỳ cung cấp hạn nhân chính cho Anh.
Đối với nhóm sản phẩm quả sấy khô, từ năm 2002-2006, giá trị nhập khẩu vào Anh tăng 22%, trong đó sản phẩm từ các nước đang phát triển chiếm 45% thị phần. Sản phẩm quả sấy khô được nhập khẩu nhiều vào Anh là nho, chà là, mơ và mận. Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Pháp, Chilê là những nước xuất khẩu chính nhóm hàng này cho Anh.
Quả đóng hộp chiếm 9% giá trị nhập khẩu của ngành hàng rau quả chế biến của Anh với các sản phẩm chính là dứa, đào, cam quýt và quả hỗn hợp. Thái Lan là nước cung cấp chính nhóm hàng này cho Anh, với sản phẩm chủ đạo là dứa đóng hộp. Tiếp đó là Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ và Nam Phi.
Là quốc gia nhập khẩu rau quả chế biến với số lượng lớn và có tốc độ tăng trưởng bền vững, cùng với sản lượng nhập khẩu từ các nước đang phát triển đang tăng mạnh cả về giá trị và số lượng với tốc độ tăng trưởng cao nhất trong EU. Anh là thị trường đầy tiềm năng cho các sản phẩm rau quả của Việt Nam, đặc biệt với những sản phẩm rau quả đóng hộp và hạt điều ăn liền vốn là thế mạnh của Việt Nam.
Trạng thái xuất siêu trong tháng 7 đã không thể kéo dài thêm. Trong nửa đầu tháng 8, cán cân thương mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam lại ghi nhận mức thâm hụt xấp xỉ 256 triệu USD, theo số liệu của Tổng cục Hải Quan.
Ghi lại ý kiến của ông Yoshida Sakae, Giám đốc điều hành Văn phòng TPHCM của Tổ chức Thúc đẩy ngoại thương Nhật Bản (Jetro), về cách thức làm ăn với người Nhật và thâm nhập thị trường Nhật tại hội thảo “Hội nhập kinh tế thế giới”, do Công ty Điện tử Minh Trân tổ chức tuần qua.
Hiện số lượng các sản phẩm của Việt Nam vào thị trường Hồi giáo còn quá ít, do các doanh nghiệp chưa có nhiều thông tin cũng như chưa quan tâm đúng mức đến việc phát triển các sản phẩm đáp ứng yêu cầu.
Trung Quốc vẫn là một thị trường trọng điểm hàng đầu và là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Với một thị trường tiềm năng lớn như vậy, DN VN sẽ có nhiều cơ hội để phát triển những mặt hàng chủ lực. Song, thị trường này vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Sau thảm hoạ động đất và sóng thần tháng 3-2011, nhu cầu tiêu dùng của Nhật Bản bị sụt giảm trong ngắn hạn, nhưng dự báo sẽ tăng mạnh đối với một số hàng hoá trong thời gian khoảng một năm sau đó.
Quan hệ kinh tế-thương mại song phương giữa Việt nam và Ghi-nê đang đuợc thúc đẩy. Kim ngạch trao đổi hai chiều giữa hai nước trong năm năm qua ngày càng tăng. Năm 2007, Việt Nam xuất sang Ghi-nê 8,1 triệu và nhập 4,1 triệu USD. Theo Hải quan Việt Nam, trong 6 tháng đầu năm 2008, ta đã xuất khẩu sang thị trường này 14,6 triệu USD và nhập khẩu 2,1 triệu USD. Các sản phẩm xuất khẩu chính gồm gạo, nguyên phụ liệu thuốc lá, sản phẩm cao su, săm lốp ôtô, xe đạp, xe máy, sản phẩm dệt may, giày dép các loại, bánh kẹo… Những mặt hàng nhập khẩu chính gồm sắt thép phế liệu, hạt điều thô, gỗ và sản phẩm gỗ… Từ năm 2008, Thương vụ VN tại Marốc được giao kiêm nhiệm thị trường Ghi-nê.
Theo số liệu của Hải quan VN, kim ngạch trao đổi hai chiều giữa Việt Nam và Sénégal năm 2007 đạt 15.980.000 USD, trong đó ta xuất 9.870.000 USD (chủ yếu là sản phẩm gạo, dệt may, hạt tiêu và săm lốp ô tô, xe máy), nhập 6.110.000 USD (chủ yếu là sắt thép phế liệu và bông). Trong 6 tháng đầu năm 2008, xuất khẩu của ta sang thị trường này đạt 19,3 triệu USD và nhập khẩu đạt 4,9 triệu USD. Hiện nay Đại sứ ta tại Algerie kiêm nhiệm Senegal. Kể từ năm 2008, Thương vụ VN tại Marốc được giao kiêm nhiệm thị trường Sénégal.
Từ ngày 1/1/2009, các mặt hàng khoáng sản than, đá, quặng, dầu thô... sẽ có khung thuế mới với mức sàn phổ biến là 0% và mức trần là 50%, thay cho khung phổ biến 0-20% hiện hành.
Quyết định số 93/2008/QĐ-BTC ngày 29/10/2008 của Bộ Tài chính về thủ tục hải quan đối với hàng hoá, vật phẩm xuất khẩu, nhập khẩu quá cảnh gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh (CPN) đường bộ quy định về phân loại hàng hoá như sau:
Thủ tục hải quan đối với loại hình hàng hoá mua nguyên vật liệu ở nước ngoài và đặt gia công ở nước ngoài khác, sau đó nhập khẩu về Việt Nam như sau:
Iran là một thị trường lớn, không khó tính, khả năng và điều kiện thanh toán tốt. Song các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa chủ động tìm hiểu thị trường này.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....