Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Thị trường EU (1): Giới thiệu về thị trường EU

THỊ TRƯỜNG  EU

Là khu vực phát triển kinh tế cao, EU với 27 nước thành viên có tổng diện tích khoảng 4 triệu km2, dân số gần 500 triệu người, GDP khoảng 13.000 tỷ USD, bình quân đầu người 29.000 USD/năm (số liệu năm 2006).

Các lĩnh vực sản xuất có tính cạnh tranh nhất, chiếm 34% tổng giá trị sản xuất công nghiệp phục vụ cho xuất khẩu của EU là: dược phẩm, máy móc và thiết bị, chế tạo máy bay và công nghệ vũ trụ, sản phẩm khoáng chất phi kim loại, in ấn và xuất bản, thiết bị khoa học... Các lĩnh vực sản xuất có mức đóng góp thấp nhất là hàng điện tử, thiết bị văn phòng, giày dép, dệt may..., trong đó giày dép và dệt may đang ở tình trạng thiểu phát.

EU thực hiện một chính sách thương mại chung trong toàn khối và áp dụng các biện pháp bảo hộ mậu dịch bằng hàng rào phi thuế quan (tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm soát chất lượng…), thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp… Các thoả thuận thương mại của EU với các đối tác ngoài khối có thể được gắn với các yêu cầu phi thương mại như bảo vệ môi trường, điều kiện lao động, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thậm chí cả vấn đề nhân quyền. Ngay cả việc dành ưu đãi GSP cho các nước đang phát triển cũng được EU gắn với các vấn đề chính trị.

Để hoàn thiện chính sách thương mại chung cho một thị trường thống nhất, EU sẽ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp dựa trên các nguyên tắc “minh bạch hoá và cạnh tranh công bằng”. Một số chính sách sẽ được áp dụng nhằm đơn giản hoá các thủ tục hành chính, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng khả năng tiếp cận vốn, trợ giúp tài chính và nguồn lao động cho các doanh nghiệp, gắn mọi hoạt động với nghĩa vụ bảo vệ môi sinh. Đây cũng là mục tiêu trọng tâm trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của EU giai đoạn 2007 – 2013.

EU rất cứng rắn trong các tranh chấp thương mại và thắt chặt quản lý chất lượng hàng hoá nhập khẩu, kể cả với các đối tác lớn và quan trọng như Mỹ, Nga, Trung Quốc. Trong thương mại quốc tế, bên cạnh mục tiêu hướng tới tự do hoá thương mại toàn cầu, EU sẽ tiếp tục áp dụng các biện pháp cân bằng thương mại được Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cho phép, như chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu…

Trước đây, EU chủ trương chỉ tập trung vào quá trình tự do hóa thương mại toàn cầu trong khuôn khổ WTO. Nhưng gần đây, EU đã phải chấp nhận xu thế tăng cường hợp tác kinh tế - thương mại song phương và khu vực qua việc tham gia đàm phán ký kết một số thỏa thuận, như: Hiệp định thương mại với 78 nước ACP (châu Phi, Caribe và Thái Bình Dương); thoả thuận hợp tác kinh tế xuyên Đại Tây Dương và Hiệp định “Bầu trời mở” với Mỹ; khởi động đàm phán các khu vực mậu dịch tự do (FTA) với Hàn Quốc, Ấn Độ, ASEAN và Trung Mỹ; tăng cường hợp tác năng lượng với các nước Trung Á và Balkan; thiết lập quan hệ "đối tác chiến lược" toàn diện với Brasil...

EU là một trong những khu vực đầu tư ra nước ngoài cũng như thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhiều nhất trên thế giới. Trong năm 2006, EU đã đầu tư ra nước ngoài 183 tỉ Euro, tăng 35% so với năm 2005 và được nhận 135 tỉ Euro FDI, tăng 42% so với năm 2005.

Các nước thuộc EU đầu tư ra nước ngoài lớn là Pháp (39 tỉ Euro, chiếm 21%), Đức (31 tỉ Euro). Các nước được  nhận FDI nhiều nhất là Anh (56 tỉ Euro, chiếm 42%), Luxembourg (20 tỉ Euro).

Một số chính sách thu hút và khuyến khích FDI của EU:

- Uỷ ban châu Âu (EC) quản lý vĩ mô chính sách đầu tư và cho phép áp dụng các biện pháp nhằm duy trì sự cạnh tranh giữa các thành viên EU. Các nước phải thông báo cho EC trước khi áp dụng tất cả các biện pháp ưu đãi, sau đó EC sẽ quyết định một chương trình khuyến khích đầu tư toàn khối.

- Các nước thành viên EU ngày càng chú trọng tăng cường thế mạnh của các vùng và tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư bằng cách tiếp tục cải thiện các điều kiện vật chất (cơ sở hạ tầng, giao thông, liên lạc...) và các điều kiện khác (dịch vụ y tế, giáo dục...).

- Tạo cơ chế cho phép các chính quyền địa phương (bang, vùng) thực hiện nhiều chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư. Chính quyền địa phương có  quyền thương lượng trực tiếp với các nhà đầu tư và quyết định các biện pháp ưu đãi (đào tạo, lựa chọn nhân công hoặc chuyển nhượng, quy hoạch đất đai).

- Để khuyến khích đặc biệt đầu tư thúc đẩy phát triển các vùng, miền khó khăn và có tỷ lệ thất nghiệp cao, tuỳ theo khả năng, các nước thành viên EU đã áp dụng nhiều chính sách ưu đãi cho các dự án đầu tư lớn có vốn trong hoặc ngoài nước.

- Tăng cường thành lập các tổ chức xúc tiến đầu tư, có nhiệm vụ kêu gọi đầu tư vào các lĩnh vực nhạy cảm và cung cấp đầy đủ thông tin để hoạt động đầu tư rõ ràng, minh bạch nhưng linh hoạt và dễ giám sát.

- Trợ cấp vốn hoặc có chính sách ưu đãi cho các dự án đầu tư ra nước ngoài do các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện.

EU dành khoảng 2/3 ngân sách để trợ cấp nông nghiệp và dựng lên nhiều hàng rào kỹ thuật với những yêu cầu khắt khe về chất lượng để bảo vệ nền nông nghiệp của mình.

Với gần 500 triệu người tiêu dùng có mức thu nhập cao, EU luôn là một thị trường lớn và khó tính. Người tiêu dùng EU có thị hiếu thay đổi nhanh, yêu cầu cao về chất lượng hàng hóa, vệ sinh môi trường, nhãn mác, bao bì... Các doanh nghiệp nước ngoài muốn thâm nhập được thị trường EU phải có khả năng cạnh tranh cao và trình độ kinh doanh chuyên nghiệp.

Trong 6 tháng đầu năm 2008, sự bất ổn trên thị trường tài chính thế giới, giá năng lượng và nhiều mặt hàng thiết yếu leo thang và nguy cơ suy thoái của nền kinh tế Mỹ vẫn tiếp tục tác động tiêu cực đến kinh tế EU, tuy mức độ ảnh hưởng đã có xu hướng giảm dần. Đến tháng 5/2008, lạm phát tại EU đã tới 3,9%, riêng khu vực Euro là 3,7%. Tỉ lệ này cùng kỳ năm ngoái là 2,1% và 1,9%. Riêng trong tháng 6/2008, lạm phát của 15 nước khu vực đồng Euro (bao gồm cả Cyprus và Malta) đã tăng 4% (theo Eurostat) gấp đôi mục tiêu mà Ngân hàng Trung ương châu Âu đã đề ra. Ngân hàng Trung ương châu Âu đã phải chấp nhận giải pháp tăng lãi suất để kiềm chế bớt lạm phát.

Các nước có mức lạm phát thấp nhất là Hà Lan (2,1%), Bồ Đào Nha (2,8%), Đức (3,1%) và các nước có mức lạm phát cao nhất là Latvi (17,7%), Bulgarie (14%), Litva (12,3%). Trong khi đó, tăng trưởng GDP của EU trong quý I/2008 chỉ đạt 0,7%, tương đương với mức tăng trưởng của khu vực Euro.

Giá hàng hóa tăng cao, đặc biệt là xăng dầu đã gây nhiều khó khăn do EU phụ thuộc tới 50% vào nhập khẩu nhiên liệu. Để đảm bảo an ninh năng lượng và từng bước độc lập về nhiên liệu, EU đang tăng dần việc chế tạo và sử dụng nhiên liệu sinh học. Hiện nay, EU đã quy định các trạm xăng phải bán nhiên liệu pha 5,75% nhiên liệu sinh học và sẽ tăng dần tỷ lệ này.


Đến hết tháng 4/2008, EU đã xuất khẩu 428,4 tỉ Euro ra các nước ngoài khối, tăng 9% so với cùng kỳ năm 2007 (391,6 tỉ Euro) và nhập khẩu 510,7 tỉ Euro, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2007 (458,6 tỉ Euro). Thâm hụt thương mại của EU trong 4 tháng đầu năm 2008 là 82,4 tỉ Euro, tăng 23% so với cùng kỳ năm 2007 (67 tỉ Euro).

Xu thế từ nhiều năm nay là EU nhập siêu đối với hầu hết các nước, trừ Mỹ vẫn đang tiếp tục. Trong đó, nhập siêu từ Trung Quốc luôn lớn nhất, chiếm gần 60% tổng nhập siêu của EU.

Do có trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ cao, những mặt hàng mà các nước EU có thế mạnh và có tính cạnh tranh cao hầu hết thuộc các ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo, hoá chất, giao thông vận tải, hàng không, dược phẩm, mỹ phẩm cao cấp, thực phẩm, đồ uống và dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng lớn… Nhu cầu nhập khẩu của EU phần lớn là nguyên, nhiên vật liệu, hàng thủ công mỹ nghệ, giày dép, may mặc, thuỷ sản, nông sản, lương thực…

Trao đổi thương mại của EU với một số đối tác lớn, theo Eurostat, đến hết tháng 4/2008 như sau:

Đơn vị: tỉ Euro

 

EU xuất khẩu

EU nhập khẩu

Cán cân

Mỹ

83,5

62,0

21,5

Nga

32,9

57,6

-24,6

Nhật

14,5

26,4

-11,9

Hàn Quốc

9,0

13,1

-4,1

Trung Quốc

25,7

74,6

-48,9

ASEAN

18,5

25,7

-7,2

 

Từ 1/6/2008, EU đã bắt đầu giai đoạn đăng ký hóa chất nhập khẩu theo Luật Hóa chất (REACH) được ban hành từ tháng 6/2007. Theo đó, các nhà xuất khẩu ngoài khối phải qua đại diện của mình tại EU để đăng ký các hóa chất trong sản phẩm xuất khẩu sang EU. Từ 1/12/2008 các hóa chất không được đăng ký hoặc đăng ký thất bại sẽ không được sử dụng để sản xuất sản phẩm xuất sang thị trường EU. Các sản phẩm có chứa hóa chất chưa được đăng ký trước 1/12/2008 sẽ phải trải qua một quá trình đăng ký chi tiết và kéo dài trước khi được phép nhập khẩu vào EU.

Việc thực hiện đăng ký hóa chất đang gây khó khăn và lúng túng cho nhiều doanh nghiệp ngoài khối, đặc biệt là trong việc tìm hiểu các quy định và thủ tục cụ thể. Một số nước ASEAN (Indonesia, Thái Lan...) đã phải mời các chuyên gia của EC sang trình bày các vấn đề liên quan đến đăng ký hóa chất. Một số vấn đề gây nhiều thắc mắc nhất, là: (i) việc phải đăng ký qua đại diện tại EU, thậm chí một số nước cho rằng đây là rào cản thương mại trái với WTO; (ii) việc nhập khẩu vào EU chỉ do đại diện đã đăng ký hóa chất thực hiện hay có thể do các doanh nghiệp khác của EU thực hiện; (iii) cách xác định hóa chất trong một sản phẩm...

Là thị trường xuất khẩu quan trọng hàng đầu của hầu hết các nước đang phát triển có sản phẩm tương tự Việt Nam nên thị trường EU là nơi cạnh tranh thực sự gay gắt.

Các yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm được EU nâng cao và áp dụng các biện pháp thực thi mạnh hơn (điển hình là do EU hạn chế nên Malaisia đã tự nguyện tạm dừng xuất khẩu thủy sản sang EU để có các biện pháp nâng cao chất lượng). Đối với Việt Nam, chỉ một bài báo của Hong Kong về bùng phát dịch tả liên quan đến điều kiện vệ sinh kém của hàng thủy sản nhập từ Việt Nam, đặc biệt là mắm tôm, đã khiến các quan chức EC lo ngại và gửi thư yêu cầu Việt Nam cung cấp thông tin và khẳng định không có các lô hàng có nguy cơ đã được giao sang EU.

Do chưa được EU công nhận có nền kinh tế thị trường nên hàng hoá của Việt Nam chưa được hưởng hoàn toàn lợi ích của việc là thành viên WTO và phần nào bị đối xử kém thuận lợi so với một số nước khác, đặc biệt là trong các vụ kiện bán phá giá.

 EU đã bắt đầu sử dụng vấn đề bảo vệ môi trường để hạn chế nhập khẩu một số loại hàng hóa nguồn gốc thiên nhiên. Điển hình là việc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha không cho cá kiếm của Việt Nam nhập khẩu từ tháng 12/2007  với lý do Việt Nam chưa phải là thành viên của Ủy ban Nghề cá Tây và Trung Thái Bình Dương (WCPFC).

Du lịch là ngành kinh tế quan trọng của EU, tạo nhiều việc làm và góp phần phát triển kinh tế xã hội tại các vùng nông thôn, vùng xa và kém phát triển. Với mục tiêu gìn giữ, bảo tồn các di sản văn hoá và thiên nhiên, việc phát triển du lịch bền vững ngày càng trở nên quan trọng hơn đối với EU.

Nhằm đối mặt với các thách thức mới và tăng khả năng cạnh tranh trên toàn cầu của ngành du lịch, trên cơ sở ý kiến đóng góp của các doanh nghiệp du lịch, trong năm 2006 EU đã ban hành Chương trình phát triển thế kỷ 21 của ngành du lịch.

Theo dự báo của Tổ chức du lịch thế giới, đến năm 2020 sẽ có khoảng 164 triệu người dân EU, chủ yếu từ các nước Tây - Bắc Âu sẽ đi du lịch thế giới, trong đó điểm đến nhiều nhất lần lượt là châu Mỹ, Đông Á, Trung Đông, châu Phi và Nam Á.

Lượng du khách EU đến các nước đang phát triển đã gia tăng đáng kể, năm 2004 đạt 47 triệu lượt, tăng 24% so với năm 2001, chiếm 14,2% tổng số khách du lịch EU đi các nước trong năm 2004 (331 triệu). Việc khách du lịch EU đến các nước châu Âu khác nhiều nhất (17,5 triệu) và tiếp đó là đến châu Phi (9 triệu) cho thấy du lịch ở cự ly gần và tới những nơi thiên nhiên hoang dã là sự lựa chọn hàng đầu của du khách EU. Đức, Anh, Pháp, Italia và Hà Lan là 5 nước dẫn đầu về số lượng khách đi du lịch.

Trong thời gian tới, du khách EU sẽ có xu hướng ưa thích các tour du lịch sinh thái, du lịch văn hoá, du lịch nghỉ dưỡng và du lịch chăm sóc sức khoẻ, thẩm mỹ… Hình thức đặt tour tiện lợi qua mạng Internet cũng sẽ được người dân EU tăng cường sử dụng. Ngoài ra, do đồng Euro ngày càng lên giá nên du khách EU sẽ thích đi tới các nước ngoài khu vực đồng Euro.

(Nguồn: internet)

  • Lại nhập siêu trong nửa đầu tháng 8
  • Để làm ăn với người Nhật: Đừng ngồi chờ, hãy mạnh dạn!
  • Xuất khẩu vào thị trường Hồi giáo: Cần hiểu “Halal” và “Haram”
  • Thị trường Trung Quốc: Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam
  • Xuất khẩu sang Nhật: mặt hàng nào có lợi thế?
  • Một số quy định về xuất nhập khẩu của Kenya
  • Hàng trăm mặt hàng nhập từ Nhật Bản được miễn thuế
  • Cơ hội cho hàng Việt Nam tại Angiêri - Mở rộng thị trường bằng xúc tiến thương mại
  • Cần có Global Gap để xuất khẩu rau quả
  • Thực hiện quy tắc xuất xứ trong Hiệp định VJEPA
  • Xử lý các vướng mắc về C/O
  • Doanh nghiệp cần biết: Tìm hiểu phương thức giao hàng tại kho Ngoại quan tại Argentina
  • Cấp C/O miễn phí cho vải thiều xuất sang Trung Quốc
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
  • Siêu thị điện máy, cuộc chiến sống còn trên đất quê
  • Soi Top 10 hàng xuất khẩu tỷ USD có hàm lượng FDI cao nhất
  • Hàng lậu Trung Quốc tràn ngập chợ Đồng Xuân
  • CPI tháng 7 tại Tp.HCM giảm tốc mạnh
  • Hàng giả: “Căn bệnh” đau đầu kinh niên của cả thế giới
  • Sắm tết Giáp Ngọ, thương hiệu thời trang Việt lên ngôi
  • Giá gạo Việt Nam tăng, gạo Thái giảm mạnh
  • Hàng xuất khẩu gánh thêm nhiều chi phí
  • Hàng Thái bám rễ thị trường Việt
  • Trung Quốc làm giá cá toàn cầu cao chưa từng thấy

  • Giành giật thị trường bán lẻ Việt Nam: Sức ép cạnh tranh nóng lên từng ngày
  • Thị trường thực phẩm chức năng: bị "thổi" giá - người tiêu dùng lãnh đủ
  • Xuất nhập khẩu: xuất ảo, nhập thật - khó kiềm chế nhập siêu
  • Doanh nhân cần biết: Nét đặc trưng văn hóa kinh doanh Nhật Bản
  • Cán cân thương mại quý 1: Xuất khẩu thụt lùi - Nhập siêu tăng tốc
  • Việt Nam: Dự báo nhập khẩu năm 2010
  • ACFTA: Nỗi lo mất thị phần và nhập siêu từ Trung Quốc sẽ tăng mạnh?
  • Năm 2009: nhập siêu ở mức 12,246 tỷ USD
  • Ôtô nhập khẩu năm 2009 và dự báo năm 2010
  • Doanh nghiệp cần biết khi gia nhập WTO
  • Hàng Việt Nam xuất khẩu: Làm gì để nâng cao giá trị gia tăng ?
  • Bàn về chiến lược kinh doanh xuất khẩu gạo